Bạch Vân quốc ngữ thi tập - Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Phần
I. Bạch Vân quốc ngữ thi tập
1.Khuyên đời
Mảng
chê người ngắn, cậy ta dài;
Hơn
kém dù ai cũng mặc ai.
Mùi
nọ có bùi không có ngọt;
Màu
kia chày thấm lại chày phai.
Đã
hay phận định đành an phận;
Dẫu
có tài hơn chớ cậy tài.
Quân
tử ngẫm xem cơ xuất xứ;
Ắt
là khôn hết cả hoà hai.
2.Mặc
ai tài trí
Mặc
ai rằng tài, mặc ai rằng trí,
Ngay
mặt đã hay đống củ khoai.
Cáo
đội oai hùm mà hết giống,
Ruồi
nương đuôi ký luống khoe ngươi.
Nhân
tình cho biết,
Ba
bát đầy, nầy cũng sáu vơi.
3.Lòng
thư thái
Vinh
nhục bao phen hẳn đã từng,
Lòng
người sự thế dửng dưng.
Khen
thì nên tốt, chê nên dại,
Mất
ắt chẳng âu, được chẳng mừng.
Có
ai biết được lòng tri kỷ,
Vòi
vọi non cao nguyệt một vừng.
4.An
phận
Giàu
cơm thịt, khó cơm rau,
An
phận là tiên, lọ phải cầu.
Sớm
uống chè thung, hơi ngút ngút.
Hôm
kề hiên nguyệt, tỏ làu làu.
Vun
thông tưới cúc ba thằng nhỏ,
Ðỏ
lửa hâm trà một mụ hầu.
5.Ðường
đời
hiểm
hóc
6.Đạo
thường
Áng
công danh sá cắp tay
Nhiều
phen đã khỏi tiếng tai bay
Hoa
mai bạc, vì trăng tỏ
Bóng
trúc thưa, bởi gío lay
Ưu
ái chẳng quên niềm trước
Thị
phi biếng nói sự nay.
Ðã
từng trải sơn hà hết,
Ðường
thế nhiều nơi hiểm hóc thay!
Chợ
họp thì người đến dở dang,
Xa
yêu vì có mùi hương.
Ưa
ngọt thì hơn nhiều người trọng,
Quá
chua ra ủng có ai màng.
Ở
có đức lành hơn ở dữ,
Yêu
nhau chẳng đã một đạo thường.
7.Điền
viên thú bài 1
Lọ
là thành thị với lâm tuyền,
Được
thú thì hơn miễn phận bàn.
Bởi
vụng bất tài nên kém bạn,
Âu
giả vô sự cũng là tiên.
Đồ
thư một quyển, nhà làm của;
Phong
nguyệt năm hồ, khách nổi thuyền.
Dù
nhẫn chê khen, dù miệng thế;
Cơ
mầu Tạo Hoá mặc tự nhiên.
8.Điền
viên thú bài 2
Tóc
đã thưa, răng đã mòn,
Việc
nhà đã phó mặc dâu con.
Bàn
cờ cuộc rượu vầy hoa trúc,
Bó
củi cần câu trốn nước non.
Nhàn
được thú vui hay nấn ná,
Bữa
nhiều muối bể chứa tươi ngon.
Chín
mươi thì kể xuân đã muộn,
Xuân
ấy qua thì xuân khác còn.
9.Điền
viên thú bài 3
Trải
nguy nan, đã mấy phen,
Thân
nhàn, phúc lại được về nhàn.
Niềm
xưa trung ái thề chẳng phụ,
Cảnh
cũ điền viên thú đã quen.
Ba
quyển đồ thư thư nặng túi,
Một
thuyền phong nguyệt chở đầy then,
Trời
cũng biết nơi lành dữ,
Hoạ
phúc chẳng dùng cái tóc chen.
10.
(Chưa rõ tên 1)
Dửng
dưng mọi sự gác bên ngoài,
Dầu
được, dầu thua, ai mặc ai.
Mùi
thế gian nhiều mặn lạt,
Đường
danh lợi có chông gai.
Mấy
người phú quý hay yên phận?(1)
Hễ
kẻ anh hùng những cậy tài(2).
Dầu
thấy hậu sinh thì dễ sợ(3),
Sừng
kia chẳng mọc, mọc hơn tai.
………………………….
-
(1) Câu 5 đặt theo cách nghi vấn: Nguyễn Bỉnh Khiêm nói
mỉa rằng dễ có mấy kẻ giàu sang chịu yên phận mình,
không chen chân vào vòng đua tranh?
-
(2) Tin ở tài mình, chắc rằng mình có tài tất có được
dùng. Nhưng cũng vì lẽ quá tin này, mà có thể mắc tai
vạ
-
(3) Chú thích: Dầu thấy hậu sinh thì dễ sợ.Câu này lấy
ý "hậu sinh khả uý", lời của Khổng Tử, chép
trong thiên Tử Hãn, sách Luận ngữ. Câu 7,8 ý nói: phải
biết rằng người sinh sau là giỏi và
đáng
sợ hơn khác nào như cái sừng tuy mọc sau cái tai, nhưng
sẽ mọc dài hơn cái tai vậy.
11.
(Chưa rõ tên 2)
Nối
nghiệp nhà xưa học một kinh(1),
Chẳng
ngờ lạc đến áng công danh.
Thân
xưa đã có duyên hương lửa(2),
Lộc
nặng ơn nhờ đức thánh minh.
Lỗi
bước, già nên chịu dại,
Hay
cơ, trẻ khá làm thinh?
Phúc
nho hoạ trong đời trị,
No
ấm cũng nhờ phúc thái bình.
……………………….
-
(1) Đây chỉ là một cách nói khiêm tốn. Cũng có thể
một kinh ở đây là Kinh Dịch mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
dày công nghiên cứu.
-
(2) Đã đạt được công danh.
12.
(Chưa rõ tên 3)
Nói
nên hoang (1) lại nói rằng thì,
Giàu:
trọng, sang: yêu, khó: chẳng vì.
Nhị
kết, hoa thơm, ong đến đỗ(2),
Mỡ
bùi, mật ngọt, kiến nào đi?(3)
Thanh
tao của có, thanh tao bấy,
Náo
nức tay không, náo nức gì?
Mặc
rủi, mặc may khi gặp gỡ,
Khen
chi, khen miệng, cợt mà chi?
………………………….
-
(1) Tiếng cổ, nghĩa: nói ba hoa, không hợp lẽ. Ta nay còn
nói: huênh hoang. Cả câu ý nói: nói
đúng
thực sự thì e thiên hạ cho là liều lĩnh, bừa bãi, lại
nói này, nói nọ, không hay (sự thực được nêu lên ở
câu sau).
-
(2) Chú thích: Nhị kết, hoa thơm, ong đến đỗ Câu 3 ý
nói: người có tài đức tất được người đời quy
phục, tin theo
-
(3) Câu 4 ý nói: có của cho người, thì khi nào kẻ xu
nịnh lại bỏ đi?
13.
(Chưa
rõ tên 4)
Rất
nhân sinh bẩy tám mươi(1),
Làm
chi lảo đảo nhọc lòng người.
Bạch
Vân am vắng chim kêu muộn,
Kim
Tuyến(2) dòng thanh cá mát tươi.
Ưu
ái một niềm hằng nhớ chúa,
Công
danh hai chữ đã nhường người.
Giầu
lẫn khó, yên đòi phận(3),
Rất
nhân sinh bẩy tám mươi.
Thanh
nhàn dưỡng được tính tự nhiên,
Non
nước cùng ta đã có duyên.
Dắng
dỏi(4) bên tai cầm suối,
Dập
dìu trước mặt tán sen(5).
Xuân
về, hoa nở mùi hương nức,
Khách
đến, chim mừng dáng mặt quen.
Chốn
ấy thanh nhàn được thú,
Lọ
là Bồng đảo(6) mới tiên
……………….
-
(1) Câu này ý nói: tác giả đã đến tuần bảy tám mươi
tuổi là vào loại hiếm thấy trong đời.
-
(2) Tức là con sông Tuyết (sông Hàn) chảy qua làng tác
giả. Chưa rõ chữ "Kim" ngụ ý gì.
-
(3) Chú thích: Giầu lẫn khó, yên đòi phận.Câu này ý
nói: dù giàu có hay nghèo khó cũng yên
phận
mình mà thôi.
-
(4) Tiếng cổ, nghĩa: vang động. Cầm suối: nước suối
chảy, tiếng thánh thót nghe như tiếng gảy đàn.
-
(5) Lá sen tròn, xoè ra như cái tán.
-
(6) Đảo Bồng Lai ở bể Bột Hải, tương truyền nơi ở
của tiên.
14.
Của
nặng hơn người
Ðời
này nhân nghĩa tựa vàng mười(1),
Có
của thì hơn hết mọi lời.
Trước
đến tay không, nào thốt(2) hỏi,
Sau
vào gánh nặng(3), lại vui cười.
Anh
anh, chú chú, mừng hơn hớn,
Rượu
rượu, chè chè(4), thế tả tơi.
Người
của, lấy cân ta thử nhắc,
Mới
hay rằng của nặng hơn người.
……………….
-
(1) Chú thích: vàng mười.Thứ vàng mười tuổi. Chữ Hán
gọi là "thập thành kim", một thứ vàng
quý
nhất. Câu thơ có nghĩa đen rất mỉa mai: nhân nghĩa tựa
vàng, vàng là nhân nghĩa (ý này chuyển xuống câu 2).
-
(2) Chú thích: thốt. Tiếng cổ, nghĩa: nói năng. Thốt
hỏi: ở đây có nghĩa là chào hỏi
-
(3) Ý chỉ của cải nhiều.
-
(4) Rượu chè
15.
Có phúc có phần
Trời
sinh, trời ắt đã dành phần,
Tu
hãy cho hiền, dạ có nhân.
Khó
chớ oán thân, thân mới nhẹ
Giàu
mà yêu chúng, chúng càng gần.
Bạo
hung chỉn đã gươm mài đá,
Phúc
đức rành hay cỏ đượm xuân.
Chớ
có hại nhân mà ích kỷ,
Giấu
người, khôn giấu được linh thần.
16.
Cương thường tổng quát
Trời
phú tính ở mình ta,
Đạo
cả cương thường (1) năm mấy ba.
Tôi
hết ngay(2), chầu chức chúa,
Con
hằng thảo(3), kính thờ cha.
Anh
em mựa nỡ(4) điều hơn thiệt,
Bầu
bạn cho hay nết thực nhà.
Nghĩa
vợ chồng xem rất trọng.
Ở
đầu phong hoá(5) phép chưng nhà.
……………………………..
-
(1) Cương: là cái giường lưới tức cái dây chính của
lưới, từ đó móc các sợi la, mắt lưới, nhà Nho dùng
chữ "cương" để chỉ những quan hệ lớn nhất
của xã hội phong kiến. Tam cương: vua (là giường của)
tôi; cha (là giường của) con; chồng (là giường của)
vợ. Ngũ thường: năm đức tính mà người ta hằng phải
có: nhân (thương người), lễ (phép tắc trong sự ăn ở),
nghĩa (lẽ phải), trí (sự sáng suốt), tín (giữ đúng
lời nói).
-
(2) Dịch chữ "trung"
-
(3) Dịch chữ "hiếu".
-
(4) Tiếng cổ, nghĩa: chẳng nên
-
(5) Nhà nho xưa coi tình nghĩa vợ chồng là mối đầu của
phong hoá, là cơ sở của xã hội. Truyện
Hoa
Tiên nói về tình vợ chồng có câu: "Khuê môn cho rệt
mối đầu chỉnh phong".
17.
Chớ
cậy
rằng
hơn
Làm
người hay một, hoá hay hai,
Chớ
cậy rằng khôn, chớ cậy tài.
Trực
tiết cho bền bằng sắt đá,
Ði
đường ngẫm hết chốn chông gai.
Ở
thế khá yêu là của khá,
Ra
đường ai dễ kém gì ai.
18.
Dại khôn
Làm
người có dại mới nên khôn,
Chớ
dại ngây si, chớ quá khôn.
Khôn
được ích mình, đừng rẽ dại,
Dại
thì giữ phận chớ tranh khôn.
Khôn
mà hiểm độc là khôn dại,
Dại
vốn hiền lành ấy dại khôn.
Miệng
đời tựa mật mùi càng ngọt,
Ðạo
thánh bằng tơ mới hãy dài.
Chớ
cậy rằng khôn khinh kẻ dại,
Gặp
thời, dại cũng hoá nên khôn.
19.
Dĩ hoà vi quý
Ở
thế, đừng tranh tiếng trượng phu(1),
Làm
chi cho có sự đôi co(2).
Đây
cậy đây khôn, đây chẳng chịu,
Đấy
rằng đấy phải, đấy không thua.
Duật
nọ mựa còn đua với bạng(3),
Lươn
kia hầu dễ kém chi cò(4)?
Chữ
rằng: "Nhân dĩ hoà vi quý(5)",
Vô
sự thì hơn, kẻo phải lo.
………………………..
-
(1) Người đàn ông tài giỏi. Ý câu thơ răn người ta ở
đời đừng có tranh hơn thua, tranh lấy cái tiếng tài
giỏi.
-
(2) Tranh cãi giằng co nhau về một việc gì
-
(3) Chú thích: Duật nọ mựa còn đua với bạng. Duật:
một loài chim nước. Bạng: con trai. Câu này dẫn điển
"bạng duật tương tri, ngư ông đắc lợi" trong
Chiếu quốc sách: Một hôm, con trai lên bãi cát mở miệng
phơi nắng, con cò (duật) đến mổ vào thịt con trai, con
trai liền khép vỏ lại, cặp chặt lấy mỏ con cò. Hai
con giành nhau mãi, sau bị người chài bắt được cả
đôi.
-
(4)Chú thích: Lươn kia hầu dễ kém chi cò. Lươn: thân
dài, có thể quấn chặt được thân cò. Cò: mỏ dài, có
thể mổ vào thịt lươn. Ý nói mỗi bên đều có sở
trường để đối địch với nhau.
-
(5)Chú thích: Nhân dĩ hoà vi quý. Người ta ở đời nên
lấy sự hoà hảo với nhau làm điều cốt yếu
20.
Giới
dĩ phú lăng bần (Răn người cậy giàu mà coi thường
người nghèo)
Kẻ
khó thường làm ích kẻ giàu,
Ở
thì phải ngẫm, biết nhường nhau,
Bán
kia, chẳng nỡ mua cho rẻ,
Vay
nọ, xin đừng lấy lãi đau.
Bớt
nỗi sai đời làm độc khổ(1),
Thôi
thì đã trả hãy cơ cầu(2).
Nặng
lòng nhân nghĩa hay thương khó,
Giàu
ấy hầu toan mới được lâu(3).
…………………………..
-
(1)Chú thích: Bớt nỗi sai đời làm độc khổ, Ngày
trước, những nhà giàu chuyên môn làm nghề cho vay lấy
lãi, gọi là
"chủ
nợ", người nghèo khó đi vay, gọi là "con nợ".
Nếu đến hẹn mà con nợ chưa trả, thì chủ nợ có
quyền cho bọn tay sai đến nhà con nợ thúc giục trả nợ,
thì chúng giở đủ mánh khoé độc ác, nào giết gà, đánh
chó để ăn, lên giường thờ ông bà ông vải của người
ta để ngủ, v.v... Khi chúng ra về, con nợ còn phải có
tiền hoặc phẩm vật gì tiễn chúng thì mới xong xuôi.
-
(2)Hãy cơ cầu: hãy còn cơ cầu (ác nghiệt). Ý nói khi
con nợ đã trả đủ gốc và lãi rồi, chủ nợ hãy còn
yêu sách phải tạ ơn nải chuối, buồng cau, hoặc con gà,
quả gạo nếp, thủ lợn.
-
(3)Chú thích: Nặng lòng nhân nghĩa hay thương khó, Giàu ấy
hầu toan mới được lâu. Câu 7, 8 ý tác giả khuyên
người
đời khi đã giàu có rồi, muốn được bền thì phải có
lòng nhân nghĩa đối xử với mọi người, đặc biệt là
phải
thương kẻ nghèo hèn đói khổ. Rõ ràng lời
khuyên vẫn bao hàm cái ý chấp nhận trật tự phong kiến,
có kẻ giàu người nghèo, vì tác giả không vượt nổi
ra ngoài ý thức hệ phong kiến.
21.
Giới
sắc (Răn người ham sắc đẹp)
Cẩn(1)
cho hay, chẳng phải chơi,
Sắc
xem dường sóng, dễ xiêu người(2).
Lửa
rơm nếu chửa ngăn lòng tục,
Giường
mối đâu còn biết lẽ trời(3).
Có
chồng con bao xiết nỗi,
Hay
bùa thuốc ấy thói đời(4).
Kham
hiền(5), luận ác "dâm vi thủ(6)",
Cẩn
cho hay, chẳng phải chơi.
……………………………..
-
(1)Giữ gìn, đề phòng cho chu đáo, không sơ suất.
-
(2) Người xưa thường hay dùng hình ảnh này. Một câu
thơ cổ: "Sắc bất ba đào, dị nịch nhân" (Sắc
chẳng có sóng, mà dễ khiến làm đắm người). Lý Diên
-Niên (Đường) cũng có câu: "Nhất tiếu khuynh nhân
thành, tái tiếu khuynh nhân quốc" (Người đẹp cười
lần thứ nhất làm nghiêng thành người, cười lần thứ
hai làm nghiêng nước người).
-
(3) Câu 3, 4 ý nói: khi gần sắc đẹp, nếu chẳng giữ
mình, để cho lòng tục lôi kéo đến chỗ "lửa gần
rơm lâu ngày cũng bén" và lúc đó, sẽ quên hết lẽ
trời và đạo đức con người.
-
(4) Người xưa tin rằng để làm cho người khác say mê,
người ta có thể dùng "bùa thuốc".
-
(5) Đáng khen là hiền.
-
(6) Theo quan điểm Nho giáo luận về mọi tội ác, định
rõ dâm ô là đứng đầu. Người xưa có câu: "Bách
ác, dâm vi thủ; vạn thiện, hiếu vi tiên" (Trăm điều
ác, dâm là đầu; vạn điều lành, hiếu đứng trước).
22.
Giới
sùng Phật vô ích (Răn người sùng bái Phật vô ích)
Suy
lý cho cùng Phật ấy ta,
Lọ
là chung bóng đạo Di Đà?
Hiền
lành, hãy giữ bề tu kỷ(1),
Dối
trá, đừng nghe đứa xuất gia(2).
Dễ
chúng đúc chuông(3) nhân đã lạ,
Đặt
điều phá ngục(4) thói ru mà.
Chẳng
tin, Lương Vũ(5) còn bia cũ,
Tra(6),
mà lại biết thực chẳng ngoa.
………………
-
(1) Sửa mình.
-
(2) Bỏ nhà đi tu
-
(3) Chú thích: đúc chuông. Nhà tu hành đạo Phật thường
đem tờ phả khuyến đi khuyên giáo thập phương, lấy
tiền của để đúc chuông, hoặc tô tượng Phật. Họ
cho đấy là việc "công đức".
-
(4) Theo thuyết của nhà tu hành đạo Phật, thì dưới âm
phủ có 18 địa ngục, ở địa ngục có quỷ sứ đầu
trâu mặt ngựa hành tội chúng sinh, vì thế nên phải lập
đàn làm chay nhằm phá ngục để siêu độ chúng sinh.
-
(5) Tức Vũ Đế (502-540) Nhà Lương, thời Nam Bắc Triều.
Vũ Đế rất ham mê Phật giáo. Về sau bị Hầu Cảnh vây
đánh, 7 ngày không có gì ăn, phải chết đói.
-
(6) Tức tìm tòi, tra cứu. Câu này ý nói: nghiên cứu đến
nơi đến chốn, thì biết chuyện Vũ Đế sùng Phật mà
bị chết đói không phải sai ngoa, từ đó đủ biết mộ
đạo Phật nào có ích gì?
23.
Dưỡng
thân
Mới
hay phú quý bởi thời vần(1),
Chữ
"vị" là biếng nói năng,
Há
rằng chẳng biết sự nên chăng.
Tu
niệm ngang tàng thú dưỡng thân(2).
Hứng
ý, miệng ngâm câu quốc ngữ,
Giải
phiền, tay chuốc chén quỳnh xuân(3).
Đường
hoa chào khách, mặt nhìn mặt,
Ngõ
hạnh(4) đưa người chân ngại chân.
Dẫu
có ai than, thì sẽ nhủ(5),
"Thái
bình thiên tử, thái bình dân(6)".
Nhá
rau lại tiếc mùi canh ngọt,
Nếm
ếch còn thèm có giống măng.
Vuốt
mặt còn chừa qua mũi nọ,
Rút
dây lại nệ(7) động rừng chăng?
Dầu
ai nghị luận điều lành dữ,
Chữ
"vị" là vì biếng nói năng.
………………
-
(1) Câu này ý nói: do số mệnh xoay vần mà được phú
quý hay không, chứ cố gắng tìm kiếm cũng chẳng được.
Bản
in
trong "Việt thi" của Trần Trọng Kim k -- (2) Chú
thích: Tu niệm ngang tàng thú dưỡng thân. Câu này ý nói:
nên tự mình nhắc nhở mình luôn luôn giữ cho bền vững,
không để cho nhụt kém cái thú dưỡng thân. Dưỡng thân:
theo nghĩa triết học, là giữ cho bền khí chất không để
cho khí chất thay đổi theo ngoại cảnh mà sinh ra dục
vọng.
-
(3) Chén rượu ngon. Quỳnh tên một thứ ngọc quý. Xuân:
ở đây là danh từ dùng trang sức cho lời nói (mỹ từ
pháp).
-
(4) Chú thích: Ngõ hạnh. Cũng như "ngõ mận", "cửa
mận", danh từ chỉ nơi quyền quý, xem thêm chú thích
bài 22 trên
-
(5) tiếng cổ, nghĩa: bảo cho...
-
(6) Chú thích: "Thái bình thiên tử, thái bình dân".
Câu này ý nói: mong ước được sống trong cảnh thái
bình, cả vua và dân đều chung hưởng hạnh phúc.
-
(7) Sợ. Câu này tác giả nói thoát ý câu tục ngữ "Rút
dây lại sợ động rừng".
24.
Giới tham (Răn người có lòng tham)
Tượng
trời(1) âu đã quá đồng cân,
Định
cho ai, ắt có phần.
Muốn
vô nhai(2), khôn lẽ được,
Ơn
phi phận(3), khá đều phân.
Đủ
no hay vậy, xin thong thả,
Sạo
sục(4) làm chi, luống nhọc nhằn!
Nếu
tham hơn thì phải thiệt,
Hãy
ghi lời ấy để mà răn.
……………………….
-
(1) Chỉ đồng tiền (được đúc tròn theo tượng trời).
Câu này ý nói: đồng tiền được đúc theo tượng trời,
ắt cũng cân bằng, không thiên lệnh.
-
(2) Ý nói trong bụng quá tham, không biết thế nào là bờ
bến
-
(3) Ơn huệ vốn không phải phần mình đáng được hưởng
-
(4) Tiếng cổ, nghĩa: nôn nóng, bồn chồn
25.
Khuyến đãi bằng hữu (Khuyên đối xử với bạn)
Làm
người dầu dã bạn cùng ai,
Chữ
"tín" tua thìn chẳng chút sai(1).
Đừng
có nồng chi rồi lại lạt,
Nếu
mà thắm lắm ắt liền phai(2).
Chợ
hàng, miễn nhớ tuồng chơi họp(3),
Rượu
bạc, xin thôi sức ép nài.
Sắc
ắt sơ(4) hằng cần đấy,
Yêu
nhau nghĩa ấy mới bền dai.
…………………..
-
(1) Câu 2 ý nói: chơi với bạn nên giữ chữ "tín"
cho trọn vẹn, chớ đơn sai. Tín là giữ đúng lời hứa,
lời hẹn với bạn, khiến bạn có thể tin cậy.
-
(2) Trong quan hệ bè bạn, người xưa thường nhắc câu:
"Quân tử chi giao đạm nhược thuỷ" (tình bạn
bè của người
quân
tử thanh đạm như nước). Ca dao cổ cũng có câu: "Xin
ai đừng thắm, chớ phai, thoang thoảng hoa nhài mà lại
thơm lâu".
-
(3) Câu 5 ý nói: làm bạn với nhau, đừng rủ rê nhau ăn
uống nay chợ mai hàng, bê tha, mất tư cách.
-
(4) Viết thoát ý lời của Khổng Tử: "Bằng hữu,
sắc tư sơ hi" ý nói đối với bầu bạn, nếu mình
can ngăn luôn luôn (sắc) tất sẽ bị bạn xa lánh (sơ) -
(Luận ngữ).
26.
Khuyến
đãi tông tộc (Khuyên đối xử với họ hàng)
Dòng
dõi suy ra cũng một nhà,
Xem
ai hơn nữa họ hàng ta?
Đỡ
đần đành cậy vây cánh,
Gửi
thác(1) càng tin ruột rà.
Chẳng
bỏ được nào, sao chẳng biết?
Nên
gần cho lắm, há nên xa?
Cùng
nhau bầu bí yêu thương lấy(2),
Chớ
nỡ xem bằng khách tới qua(3).
………………………
-
(1) Dịch chữ "ký thác". Câu thơ ý nói: gửi gắm
cái gì thì phải tin vào người thân thích ruột rà là
hơn cả.
-
(2) Câu này ý nói: anh em họ hàng thương yêu lẫn nhau như
tình bầu bí. Ca dao có câu "Bầu ơi thương lấy bí
cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn".
-
(3)Tình họ hàng là phải thương yêu đùm bọc nhau, cưu
mang giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, chớ nên coi nhau
như khách vãng lai và đối xử với nhau gặp chăng hay
chớ.
27.
Khuyến huynh đệ vật cạnh tranh (Khuyên anh em chớ tranh
nhau)
Cùng
đội sinh thành một cửa ra,
Anh
em trời đã thực cho ta
Giúp
nàn(1), chống rẻ cùng nương cậy,
Biết
kính, hay yêu miễn thuận hoà.
Xui
giục chớ tin lời vợ.
Yêu
thương sá thấy lòng cha(2).
Chân
tay(3) gẫm lại ai hơn nữa,
Tranh
cạnh làm chi, lỗi phép nhà?
…………….
-
(1) Giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn. Chống rẻ: chống kẻ
khinh thường anh em mình. Câu này ý nói: anh em phải giúp
đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, và nương cậy nhau việc
chống lại kẻ khinh rẻ ức hiếp mình.
-
(2) Yêu thương sá thấy lòng cha: khi anh em có chuyện xích
mích nên nghĩ đến tấm lòng cha yêu thương tất cả, mà
tìm cách thuận hoà với nhau.
-
(3) Người xưa thường nói: "Anh em như tay chân".
28.
Khuyên đời
Mảng
chê người ngắn, cậy ta dài;
Hơn
kém dù ai cũng mặc ai.
Mùi
nọ có bùi không có ngọt;
Màu
kia chày thấm lại chày phai.
Đã
hay phận định đành an phận;
Dẫu
có tài hơn chớ cậy tài.
Quân
tử ngẫm xem cơ xuất xứ;
Ắt
là khôn hết cả hoà hai.
29.
Thú tiêu dao
Xóm
tự nhiên, lều một căn,
Quét
không thảy thả bụi hồng trần.
Nhìn
hàng cam quất, con đòi cũ,
Mấy
đứa ngư tiều, bô bạn thân.
Thấy
nguyệt tròn thì kế tháng,
Nhìn
hoa nở mới hay xuân.
30.
Nhẫn
thì qua
Chưa
dể ai là bụt Thích Ca,
Mọi
niềm nhân ngã nhẩn thì qua.
Lòng
vô sự trăng in nước,
Của
thảng lai gió thổi hoa.
Kìa
khách xuân xanh khi trẻ,
Mấy
người đầu bạc tuổi già,
Thanh
nhàn ấy ắt là tiên khách,
Ðược
thú ta đà có thú ta.
31.
Tiêu sái tự
nhiên
Tiêu
sái tự nhiên ắt nhẹ mình,
Nài
bao quyền cả áng công danh.
Vô
tâm ước có gương soi bạc.
Ðặc
thú kho đầy gió mát thanh.
Trẻ
dẩu biết cơ tạo hoá,
Già
lo phục thuốc trường sinh.
32.
Mùa thu đi chơi thuyền
Nước
xuôi, nước ngược, sóng dâng triều,
Thuyền
khách chơi thu, nọ phải dìu.
Chèo
vượt bóng trăng nhân lúc hứng.
Buồm
giong ngọn gió mặc cơn siêu.
Phơ
phơ đầu bạc ông câu cá,
Leo
lẻo giòng xanh con mát mèo.
Le
vịt cùng ta như có ý,
Ðến
đâu thời cũng thấy đi theo.
33.
Nhân tình thế thái bài (?) (Thế gian biến cải)
Thế
gian biến cải vũng nên doi(1),
Mặn
nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn
bạc, còn tiền, còn đệ tử(2),
Hết
cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Xưa
nay đều trọng người chân thực,
Ai
nấy nào ưa kẻ đãi bôi(3).
Ở
thế(4) mới hay người bạc ác,
Giàu
thì tìm đến, khó tìm đi.
..........................
-
(1)Ý nói ở nhân gian thường có sự thay đổi ghê gớm
cũng ví như sông sẽ thành núi, vũng sẽ thành doi cát. Có
bản
chép
là "đồi".
-
(2)Chú thích: đệ tử Chỉ học trò, đầy tớ
-
(3) Hoặc đãi buôi, có nghĩa: nói tử tế ở cửa miệng,
không thành thực
-
(4) Ở đời
34.
Nhân tình thếthái bài 04
Thấy
dặm thanh vân bước ngại chen
Được
nhàn ta sá dưỡng thân nhàn
Ba
gian am quán lòng hằng mến
Đôi
chốn sơn hà mặt đã quen
Thanh
vắng thú quê giàu bao nả
Dữ
lành miệng thế mặc chê khen
Mai
kia chửa dễ thu nên muộn
Xuân
nọ tin hoa cũng mấy phen.
35.
Nhân tình thếthái
bài
07 (Nhẹ đường danh lợi)
Ðược
thua thấy đã ít nhiều phen,
Ðể
rẻ công danh đổi lấy nhàn.
Am
Bạch Vân rồi nhàn hứng,
Dặm
hồng trần vắng ngại chen.
Ngày
chầy(1) họp mặt hoa là khách,
Ðêm
vắng hay lòng, nguyệt ấy đèn.
Chớ
chớ thờ ơ nhìn mới biết,
Ðỏ
thì son đỏ mực thì đen.
................
-
(1) Ngày muộn, ý nói suốt ngày.
36.Nhân
tình thế thái bài 16
Chửa
dễ ai là bụt Thích Ca
Mọi
niềm nhân ngã nhẫn thì qua
Lòng
vô sự trăng in nước
Của
thảng lai gió thổi hoa
Kìa
khách xuân xanh khi trẻ
Mấy
người đầu bạc tuổi già
Thanh
nhàn ấy ắt là tiên khách
Được
thú ta đà có thú ta.
37.Nhân
tình thế thái bài 28
Nép
mình qua trước chốn xôn xao
Mấy
sự bên tai gió thoảng ào
Cửa
trúc vỗ tay cười khúc khích
Hiên
mai tréo cẳng hát nghêu ngao
Lo
le đã vậy thời dầu vậy
Vặt
vãnh màng bao sá quản bao
Chẳng
hết trung cần hai chữ ấy
Nhờ
ơn đất rộng cậy trời cao.
38.
Nhân tình thế thái bài 36
Một
bầu một bát vũng sơn tăng
Thế
sự ngoài tai biếng nói năng
Hoa
nở luống hay tin gió
Đầm
thanh còn thấy dáng trăng
Già
ai ủ thông làm củi
Trẻ
người yêu trúc mọc măng
Nếu
có công danh thì có lụy
Cho
hay dù có chẳng bằng chăng.
39.
Nhân tình thế thái bài 38 (Cảnh nhàn)
Một
mai một cuốc một cần câu
Thơ
thẩn dù ai(1) vui thú nào
Ta
dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người
khôn người đến chốn lao xao(2)
Thu
ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân
tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu
đến gốc cây ta sẽ uống
Nhìn
xem phú quý tựa chiêm bao(3)
………………..
-
(1) Mặc cho ai, mặc cho ta. Tiếng ai là tiếng tác giả tự
nói mình.
-
(2) Bao hàm ý hơi mỉa mai. Nói "dại" nhưng thực
ra tự cho là "khôn", và ngược lại. Giá: thứ
rau bằng mầm của hột đậu xanh ngâm ủ, mọc lên. Thơ
ca dân gian có câu: "Đậu ngâm nên giá, đãi đằng
nhau chi".
-
(3) Tác giả ý dẫn điển Thuần Vu Phần uống rượu say
nằm ngủ dưới gốc cây hoè, rồi mơ thấy mình ở nước
Hoè An, được công danh phú quý rất mực vinh hiển... Sau
bừng mắt tỉnh dậy thì hoá ra đó là một giấc mộng,
thấy dưới cành hoè phía Nam chỉ có một tổ kiến mà
thôi. Câu chuyện nói lên quan niệm của người xưa cho
cuộc đời toàn là chuyện hư ảo, hão huyền. Phú quý
chỉ là một giấc chiêm bao.
40.
Nhân
tình thế thái bài 40
Vòi
vọi xuân xanh nửa tiền
Già
càng khoẻ khó càng bền
Đòi
phen lẩn luốt vì thơ dại
41.
Nhân tình thế thái
bài 46 (Mặc chê khen)
Thị
phi chẳng quản, mặc chê khen,
Ngu
dại chan chan tính đã quen.
Cảnh
cũ điền viên tìm chốn cũ,
Mọi
sự lờ đờ bởi rượu quen
Ngày
vãn giải phiền cờ một cuộc
Đêm
thanh làm bạn sách hai bên
Xưa
nay xuất xử đâu là phải
Ở
cũng nên về ắt cũng nên.
Khách
nhàn sơn dã dưỡng thân quèn.
Nhà
thông đường trúc lòng hằng mến,
Cửa
mận tường đào bước ngại chen.
Thế
sự tuần hoàn hay đắp đổi.
Từng
xem thua được một hai phen.
42.
Tử sự phụ mẫu
(Con thờ cha mẹ)
Ngẫm
đạo làm con ở rất nan(1),
Ở
cho lọn đạo mới là ngoan.
Hay
khi "ôn sảnh(2)" bề cung dưỡng(3),
Siêng
thủa "thần hôn(4)" việc hỏi han.
Dầu
giận hờn, càng kính thuận,
Vâng
sai khiến, dám phàn nàn?
Chữ
rằng: "Chưa dễ đền ơn nặng",
Lọ
nỗi riêng tây theo thế gian?
………………
-
(1) Khó khăn.
-
(2) Do chữ: "đông ôn, hạ sảnh", nói về bổn
phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ. Khi đông về giá rét
thì con lo cho cha mẹ được ấm áp và khi hè đến nóng
bức thì con lo cho cha mẹ được mát mẻ. Văn học cổ
dịch "ôn sảnh" là: quạt nồng, ấp lạnh.
-
(3)Tìm thức ăn nuôi cha mẹ (cung cấp, phụng dưỡng).
-
(4) Do chữ "hôn định, thần tỉnh", cũng nói về
bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ. Hằng ngày, cứ
tối đến thì con phải hầu cha mẹ cho yên giấc ngủ, và
lúc buổi sớm ngủ dậy thì con phải thăm hỏi xem cha mẹ
có được yên giấc ban
đêm
không.
43.
Tự
thán
Gần
son thì đỏ, mực thì đen,
Sáng,
biết nhờ ơn thuở bóng đèn.
Ăn
uống miễn theo nơi phép tắc,
Tới
lui cho biết lẽ kinh quyền(1).
Nên
chăng, mặc thế(2) người lành dữ,
Tráo
trở, khôn ai thói bạc đen(3).
Ở
thế có khôn thì có khó(4),
Chữ
rằng: "Vô sự tiểu thần tiên(5)".
………………………..
-
(1) Kinh là đi theo đường thẳng, làm theo lễ thường:
quyền là quả cân, cân nhắc theo quả cân, linh hoạt tuỳ
điều kiện.
-
(2) Mặc đời.
-
(3) Câu 6 ý nói: ăn ở tráo trở, bạc đen như ai há có
phải là khôn ngoan?
-
(4) Dẫu khôn ngoan, cũng chẳng tránh khỏi có lúc gặp khó
khăn
-
(5) Nghĩa chung của toàn bài là khuyên người đời nên
lánh xa những chốn xấu xa, xử sự đúng đạo đức, hợp
lẽ kinh quyền để giữ lấy cuộc sống yên ổn.
44.
Tự
thuật
Tuổi
già ngoài tám mươi già,
Thấm
thoát xem bằng bóng ngựa qua,
Mai
bạc lạnh quen nhiều tháng tuyết,
45.
Thế sự
Non
Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu;
Có
một đàn xà đánh lộn nhau.
Vượn
nọ leo cành cho sĩ bóng;
Cúc
vàng thêm đổi mấy phen hoa.
Dẩu
có phận là ơn chúa,
Ðược
làm người bởi đức cha.
Am
quán ngày nhàn rồi mọi việc,
Dầu
ta tự tại mặc dầu ta.
Lợn
kia làm quái phải sai đâu.
Chuột
nọ lăm le mong cắn tổ;
Ngựa
kia đủng đỉnh buớc về tàu.
Hùm
ở trên rừng gầm mới dậy,
Tìm
về quê cũ khúc ngựa Tần.
46.
Thế tục
Khôn
dại nào ai chẳng có nghề,
Khó
khăn phải luỵ đến thê nhi.
Được
thì thân thích chen chân đến,
Thất
thế hương lư ngảnh mặt đi.
Thớt
có tanh hôi ruồi mới đến,
Sành
không mật mở kiến bò chi ?
Đời
nay những trọng người nhiều cuả,
Bằng
đến tay không mấy kẻ vì!
47.
Thói đời
Thế
gian biến đổi vũng nên đồi
Mặn
nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
Còn
bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết
cơm, hết rượu hết ông tôi
Xưa
nay đều trọng người chân thực
Ai
nấy nào ưa kẻ đãi bôi
Ở
thế mới hay người bạc ác
Giàu
thì tìm đến khó tìm lui.
48.
Thú ẩn dật
Một
cơ yêu nhọc đổi lại đều,
Yêu
bao nhiêu thì nhọc bấy nhiêu.
Tham
phải án công danh luỵ,
Muốn
cho con tạo trêu.
Vui
vầy lạc xã năm ba khách,
Lánh
chốn Nam Dương ở một lều.
49.
Thú dưỡng thân
Mới
phú quý bởi thời vận,
Tu
luyện lâu bền thú dưỡng thân.
Hứng
ý miệng ngâm câu quốc ngữ,
Giải
phiền tay chuốt chén quỳnh xuân.
Ðường
hoa chào khách mặt nhìn mặt,
Ngõ
hạnh đưa người chân ngại chân.
Dầu
có ai than thì sẽ nhủ:
"Thái
bình Thiên tử, thái bình dân".
50.
Thú
thanh nhàn
Giàu
mặc phận, khó dầu bì.
Ðọ
thanh nhàn khá nhất bì.
Vếu
váo câu thơ cũ rích.
Khề
khà chén rượu hăng xì,
Trăng
thanh gió mát là tương thức,
Nước
biết non xanh ấy cố tri.
51.
Vô sự là hơn
Hễ
kẻ trêu người, kẻ phải lo,
Chẳng
bằng vô sự ngáy o o.
Tay
kia khéo nắm, còn hơn mở
Miệng
nọ hay cười, có lúc ho
Có
thuở được thời mèo đuổi chuột
Ðến
khi thất thế kiến tha bò
Ðược
thua sau mới ăn năn lại,
Vô
sự thường hơn có sự ru.
52.
Thú nhàn
Lẩn
thẩn ngày qua lại tháng qua,
Một
năm xuân tới một phen già.
Ái
ưu(1) vằng vặc trăng in nước,
Danh
lợi lâng lâng gió thổi hoa(2).
Án(3)
sách vẫn còn án sách cũ,
Nước
non bạn với nước non nhà.
Cuộc
cờ đua chí dù cao thấp,
Ta
muốn thanh nhàn thú vị ta.
……………………….
-
(1)Do chữ "ưu dân ái quốc", nghĩa là lòng yêu
nước thương dân bao giờ cũng trong sáng như vầng trăng
in đáy nước. Và đây cũng là một tư tưởng quán triệt
trong nhiều bài thơ của tác giả sau này.
-
(2) Chú thích: Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa. Coi danh lợi
nhẹ thoảng (như gió thổi vào hoa), không đáng kể
-
(3) Cái bàn dài. Có bản chép sai chữ Án ở câu này là
Yên, thứ gối dựa làm bằng gỗ, ở dưới có chỗ để
sách; chép như vậy cũng có nghĩa, mà âm điệu câu thơ
lại êm hơn. Thật ra, hai chữ án và yên gần giống nhau.
Phần
II. Bạch Vân gia huấn
1.Bài
mở đầu
Lượng
Đức Thánh(1)
rộng như biển cả,
Truyền
dậy cho thiên hạ điều hay.
Làm
điều thiện hưởng phúc dầy,
Bất
nhân thất đức có ngày tiêu vong.
Mềm
dẻo tốt hơn cương cường,
Lưỡi
mềm còn mãi, răng thường gẫy đi.
Chớ
cậy ta dài mà chê người ngắn,
Đừng
dối lòng đừng oán đất trời.
Lặng
im mà ngẫm sự đời,
Tình
người thoang thoảng, vơi vơi thì bền(2).
Đừng
quên bạn nghèo hèn xưa cũ,
Vợ
cháo rau xin chớ phụ tình(3).
Vật
ngon, ăn quá bệnh sinh,
Vui
chơi quá mức, ắt thành tai ương.
Giàu
sang lắm nhiều đường bổng lộc,
Cây
tái trồng hẳn gốc bị thương.
Buổi
sáng còn quốc ruộng nương
Biết
đâu chiều đã công đường có khi(4).
Làm
tướng đâu phải vì dòng dõi,
Thân
nam nhi trí phải tự cường.
...........................
-
(1)Khổng Tử được tôn là Đức Thánh
-
(2)Tục ngữ có câu: Chóng thắm thì chóng phai ,Thoang
thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu
-
(3)Nguyên câu chữ Hán là: Tao khang chi thê bất khả hạ
đường ,Bần tiện chi giao bất khả
vong.
-
(4)Công đường có khi: Nghĩa cũ là học giỏi đỗ đạt
cao thì được ra làm quan..
2.Hiếu
hạnh
Đức
hiếu hạnh là chương thứ nhất
Hãy
suy xem sự thật ra sao
Trăm
hay lấy hiếu làm đầu,
Vạn
điều ác cũng khơi mào từ dâm(1)
Người
siêng năng thêm nhiều tuổi thọ,
Kẻ
chơi bời đa số chết non.
Sự
đời chậm chắc thì hơn,
Tình
người thoang thoảng thì hơn quá nồng.
Sự
sang giầu nếu không đáng hưởng,
Cố
hưởng, rồi cũng chẳng ra sao.
Dành
sách cho con cháu là quý
Nhưng
dễ đâu họ đã đọc cho.
Dành
vàng cho họ đầy kho,
Chắc
đâu họ đã giữ cho lâu bền.
Chi
bằng tích đức liền liền,
Mới
là cái kế lâu bền về sau
Hoạ
hay phúc biết đâu là cửa
Do
con người định cả đấy thôi.
Ngẫm
xem quy luật đất trời,
Trồng
đậu được đậu, dưa thời được dưa
Lưới
trời rộng thưa, mà không lọt,
Không
bao giờ bỏ sót chính tà.
Biết
xấu thời tránh cho xa,
Biết
lỗi sửa lỗi ấy là điều hay.
Trước
khoan nhượng, sau dày quả phúc,
Trước
mở mang, sau được phúc lành
Chớ
chơi với kẻ bất minh
Của
phi nghĩa chớ chiếm thành của ta.
Lòng
chớ nghĩ gian tà, hiểm độc,
Chân
đi không bước bậy, giẫm càn.
Nghe
lời nói thẳng rõ ràng,
Thấy
nơi chình nghĩa đường hoàng thì theo.
Chưa
già đã hưởng lộc cao,
Hẳn
rằng sau cũng mau mau hết đời.
Kẻ
mưu mô hại người người hại
Nuôi
hận thù thì mãi không thôi
Người
quân tử chẳng hoài hơi,
Chẳng
cần lý sự tránh lời hơn thua.
Có
bệnh, biết phòng ngừa bệnh tật,
Thì
con người chắc hẳn sống lâu.
Có
việc, biết bảo ban nhau,
Cửa
nhà yên ấm, bền lâu tình người.
Lấy
vợ đâu kén đẹp người.
Được
người hiền đức thì đời mới vui.
Mối
quan hệ với người thân quyến,
Dù
xa gần năng đến thăm nhau,
Quan
chức chẳng cứ thấp cao,
Thanh
liêm, cần mẫn, dân nào chẳng yêu.
Tình
bạn bè giúp nhau mới đẹp,
Chớ
có vì nhau nhẹt thân chơi.
Ngọc
là vật quý ở đời
Cháu
con hiếu thảo sáng ngời là phong.
...............................
-
(1)Chú thích: dâm. Dâm không chỉ có nghĩa là dâm dục,
dâm ô, dâm đãng, dâm loạn... mà còn có nghĩa phàm những
cái gì quá lắm đều gọi là dâm như ăn chơi xa hoa quá
đáng.
3.Chức
phận làm con
Phận
làm con phải thông đạo hiếu,
Phận
làm dân phải hiểu chữ trung.
Trên
ra lệnh, dưới phục tùng,
Cha
làm việc tốt, con cùng làm theo.
Của
cải nhiều dùng lâu cũng hết,
Chữ
hiếu trung hưởng mãi vô cùng.
Bàn
mưu tư lợi thì đừng,
Bàn
điều chânchính,nên cùng tham gia.
Làm
tốt chớ ba hoa kể lể,
Dạy
điều thiện, đừng nên tham quá,
Để
người học có khả năng theo
Khoan
hòa sẽ được tin yêu,
Siêng
năng cần mẫn ắt nhiều thành công.
Nói
thận trọng thì không sợ lỗi,
Làm
thận trọng đỡ hối về sau.
Thế
lực dù mạnh đến đâu,
Nếu
đem dùng hết, ắt sau hại mình.
Hoặc
cậy thế tạo thành phúc lộc,
Hẳn
rằng sau cũng chẳng ra gì.
Cứ
đường chính đạo mà đi,
Hiếu,Trung,Nhân,Nghĩa
nghĩ suy mà làm.
Hoa
sớm nở, thì hoa dễ sớm tàn.
Cẩn
thận đáng giá ngàn vàng,
Phải
suy nghĩ kỹ hãy làm mới hay.
Người
tốt hay xắn tay làm phúc,
Giúp
ai không lợi dụng người ta.
Người
biết lỗi, sửa thì tha,
Trị
người có tội, chớ mà quá nghiêm.
4.Nói
về giàu sang
Bài
thứ ba bàn sự giàu sang
Giàu
với sang ai chả ước mong,
Nhưng
giàu sang chẳng chính công,
Là
phi đạo đức, hẳn không lâu bền.
Ai
sống kẻ nghèo hèn cũng chán,
Nhưng
bất lương đuổi hẳn chẳng đi.
No
cơm hẩm thiết gì thịt cá,
Vui
cảnh nghèo, quên cả giàu sang.
Người
quyền quý, lắm bạc vàng,
Lấy
gương xử với họ hàng mà soi.
Ở
phải đạo, nhiều người giúp đỡ,
Sống
bất lương, ít chỗ thân tình.
Thà
nghèo giữ được thơm danh,
Hơn
giàu lắm chuyện phẩm bình, cười chê.
Bọ
ngựa rình con ve định bắt,
Chim
sẻ rình bọ sát phía sau…
Tiếng
tăm lừng lẫy càng nhiều,
Tránh
xa kẻ xấu sinh điều ghét ghen.
Nhiều
tài cũng lắm phen khốn khổ,
Nhiều
công là cái hố suy bì.
Nhớ
rằng đừng cậy, chẳng khoe (1),
Phải
luôn thận trọng chớ hề phô trương.
Nói
với bạn việc ngay ý thẳng,
Phải
người tham họ chẳng nghe đâu.
Nói
với quan chuyện thanh cao,
Phải
quan tham nhũng hẳn sau nó trù.
...................................
-
(1)Truyện Kiều có câu: "Có tài mà cậy chi tài ,Chữ
tài liền với chữ tai một vần".
5.
Đại nghĩa
Bài
thứ tư nêu câu Đại nghĩa
Dạy
cho người ta biết để khuyên nhau.
Trung
với nước đặt lên hàng đầu,
Đạo
cha con được xếp vào đại luân.(1)
Trai
tài biết thương dân, thủ tiết,
Gái
kiên trinh phải biết giữ mình.(2)
Con
dânthường chăm ngoan học giỏi,
Cũng
có ngày tiến tới làm quan,(4)
Con
quan chẳng chịu học hành,
Suốt
đời cũng chỉ làm anh dânthường.
Làm
quan chức, thấm ơn chế độ,
Có
nuôi con, mới nhớ được công cha.
Muốn
lòng ngay thẳng thật thà,
Rèn
luyện ý trí phải là đầu tiên.
Người
tài nước được thơm danh,
Vợ
giỏi như được ngọc lành trời cho.(3)
Gái
bất chính thì cho chẳng lấy,
Trai
có tài mắc bẫy thì ngu.
Bất
trung dễ mắc mưu thù,
Minh
quân như mù mới lấy làm quan.
..........................
-
(1) Hai câu này nguyên chữ Hán là: "Quân thần thiên
địa đại nghĩa, Phụ thử nhân đạo đại luân."
-
(2) Hai câu này nguyên chữ Hán là: "Sĩ phu thủ tiết,
nữ tử thủ thân"
-
(3) Hai câu này nguyên chữ Hán là: "Thiệp nhân quốc
chi bảo, hiệu phụ gia chi trân"
-
(4) Nhân sinh quan cũ ngày xưa là chăm ngoan học giỏi để
thi đỗ ra làm quan. Vận dụng ngày
nay
là chăm ngoan học giỏi để trở thành quan chức lãnh đạo
hoặc chuyên gia giỏi ở các nghành
các
cấp phục vụ Tổ Quốc và nhân dân"
6.
Chí
thiện
Bài
thứ năm: Tâm linh chí thiện
Mong
tốt lành mọi chuyện công tư.
Rất
vui là đọc thi thư,
Việc
đời mệt nhất ấy là dậy con.
Cha
nghiêm phụ răn con hiếu thảo,
Mẹ
nhân từ dạy bảo gái ngoan.
Nhà
lành hương toả chi lan,
Ở
lâu chẳng thấy mùi thơm ngạt ngào.
Gần
kẻ ác như vào chợ cá,
Buộc
người ta quen cả mùi tanh.
Có
nết tốt chẳng kiêu căng,
Đức
dày thêm mãi tạo thành thói quen.
Giàu
chớ kiêu chớ nên ích kỷ,
Sang
cũng đừng xa sỉ, hợm đời.
Việc
làm muốn tốt tuyệt vời,
Ba
lần căn nhắc hẳn hoi mới làm.
Suy
tính kỹ bao hàm hai ý:
Việc
chung riêng thấu lý đạt tình.
Từ
xưa vẫn sợ, vẫn kinh,
Lòngngười
nham hiểm nảysinh khó lường
Kẻ
tiểu nhân mưu đồ xảo quyệt,
Sinh
sự thì bận tâm mệt sức,
Nên
nhún nhường tạo Đức thì hơn.
Việc
chuẩn bị kỹ hãy làm,
Việc
không chuẩn bị chớ tham làm bừa.
Bao
kinh nghiệm từ xưa đã thấy,
Sai
một ly đi mấy dặm đường.
Quả
quyết được việc lẽ thường,
Đắn
đo hỏng việc, ấy gương ở đời.
Sắc
chẳng mê người, chính người mê sắc,
Rượu
chẳng say người, chỉ tại người say.
Đừng
nên vui quá nói chầy,
Chớ
vì sướng quá vung tay làm liều.
Quý
chim phượng bởi yêu lông cánh,
Trọng
người hiền ở cách nói năng.
Gặp
khi hoạn nạn khó khăn,
Hành
vi tế nhị, nói năng lựa lời.
Mười
mắt rồng và mười tay trỏ
Thật
công minh sáng tỏ sâu xa
Quả
đào người quý tặng ta,
Ta
lấy quả mận đem ra biếu người.
Cung
nỏ lạ chớ cầm mà khốn,
Thích
mưu đồ tiêu diệt người ngay.
Cho
dù hiểm độc, quắt quay,
Không
qua lẽ phải, chẳng xoay đạo trời.
Kẻ
bất nhân nhất thời nổi tiếng,
Không
người thì trời diệt chẳng tha
Tự
nhiên được của đầy nhà,
Một
là lộc lớn, hai là họa to
Có
lúc bại, trời cho thắng cuộc,
Hoặc
đang nghèo bỗng được giầu sang.
Thế
gian yêu lắm ghét nhiều,
Khen
nhiều chê lắm, bao điều bất an.
Mừng
nhiều lo lắm chẳng oan,
Vinh
nhiều nhục lắm,thế gian thường tình.
Đừng
cậy thế mà sinh kiêu ngạo,
Chớ
cậy quyền để tạo lợi riêng.
Làm
một điều thiện cũng nên,
Trừ
một việc ác quả nhiên rất cần.
Ngựa
chẳng quen, chớ cưỡi mà ngã.
Qua
ruộng dưa chớ sửa giầy,
Dưới
gốc mận chớ giơ tay sửa đầu.
Coi
chừng chốn cửa cao nhà rộng,
Đừng
cậy rằng tông tộc mình to.
Họ
to lắm chuyện tò mò,
Cửa
cao thường giở những trò kiêu căng.
Người
tốt, chơi nói năng chân thật,
Kẻ
xấu, chơi như mật chết ruồi.
Người
tốt bền chí thức thời,
Khó
khăn thuận lợi vẫn nuôi chí bền.
Kẻ
xấu thường van xin lúc khó,
Được
việc rồi thì nó quên luôn.
Mới
hay muôn sự vui buồn
Những
điều chí thiện phải luôn ghi lòng.
7.
Thiện
ác
Bài
thứ sáu: Hai dòng Thiện–Ác
Là
hai điều thật khác nhau xa
Trăm
năm trong cõi người ta,
Dở,
hay báo ứng, thật là công minh.
Báo
ứng có khi nhanh, khi chậm,
Nhà
tối, nghèo nào dám coi khinh.
Việc
làm phúc nếu vô tình,
Như
tuồng lánh nạn, đáng khinh khỏi bàn.
Kẻ
bạo ngược mưu toan việc xấu,
Bịp
được người sao giấu được trời
Vầng
dương mọc lặn luân hồi,
Mặt
trăng tròn khuyết, đầy rồi lại cong.
Tình
người cũng tụ, xong lại tán,
Buồn
lại vui, vui chán lại buồn.
Cỏ
hoa sớm nở tối tàn,
Cây
tùng cây bách muôn ngàn sức xuân.
Mỗi
ngày xét bản thân ba lượt(1)
Đêm
nhiều người sẽ biết cho ta.
Số
trời vốn sẵn định ra,
Giàu
sang có mệnh, vinh hoa có ngày.
Hoa
nở muộn do cây cằn cỗi,
Đời
chưa vui, bởi nỗi khổ nghèo.
Cháy
nhà có nước liền dễ chữa,
Láng
giềng cần giúp đỡ lẫn nhau.
Tình
đời lắm chuyện thương đau,
Anh
em để mẩt lòng nhau thật buồn.
Người
xưa bảo: thói quen thường vẫn vậy,
Đàn
bà thì khó dạy khó chiều.
Quân
tử phép chẳng cần theo,
Tiểu
nhân chẳng chấp những điều lễ nghi.
Thấy
ai có vật gì quý giá,
Chớ
lân la tán gạ, nài xin.
Công
việc nào quá khó khăn,
Đừng
buộc người khác phải lăn vào làm.
Muốn
trách người, phải xem mình trước.
Nếu
tha mình, tha được người ta.
Đứa
bất chính, kẻ gian tà,
Kết
thân với chúng dễ mà tàn thân.
Không
minh bạch miếng ăn lời nói,
Là
nguyên nhân cái tội hại mình.
Lúc
trẻ lao động nhiệt tình,
Khi
già cuộc sống gia đình thảnh thơi.
Trẻ
mà lêu lổng chơi bời,
Về
già chắc hẳn cuộc đời gian truân.
Của
cho con đâu cần vàng ngọc
Mà
cho con được học được hành.
Giàu
sang, khách đến thăm nhiều,
Nghèo
hèn, thân thích ra chiều cách ly.
Lúc
dư dật, phòng khi túng thiếu,
Khi
sướng vui, phải liệu khi buồn.
Một
nhà nề nếp cương thường,
Cha
từ, con thảo, đẹp gương vợ chồng.
Tình
anh em: thuận lòng nhân ái,
Nghĩa
bạn bè qua lại giúp nhau.
Người
con phòng lúc ốm đau.
Chứa
thóc phòng đói là câu chí tình.
Giúp
người gặp cảnh tình nguy cấp,
Hoặc
cứu người trong lúc gian nguy.
Có
mới đừng nới cũ đi,
Tiếng
nói một nẻo, bụng suy một đằng.(2)
Chớ
có lành bắt vành ra méo,
Đừng
làm cho bé xé ra to.
Một
chút tà tất quanh co,
Người
ta sẽ tỏ các trò quắt quay.
Lời
không cánh mà bay khắp ngả,
Đạo
đức cao thì gốc cả, rễ sâu.(3)
Ngọc
vết mài chẳng khó đâu,
Nói
sai, biết sửa bao lâu mới lành.
Lời
đã nói bay nhanh hơn gió,
Bốn
ngựa phi cũng khó đuổi theo.(4)
Khinh
người là thói tự kiêu,
Người
ta khinh lại, đời nào chịu thua.
Tự
khen mình mà chê người hỏng,
Thì
người ta có trọng gì mình.
Hãy
suy Thiện–Ác, Nhục–Vinh
Ở
sao có nghĩa có tình thì hơn.
Việc
gia thất muốn yên mọi sự
Mỗi
người nên biết xử phận mình
Đừng
mưu lấy của bất minh
Chớ
ghen ghét với người mình còn thua.
Vợ
người ta chớ đùa cợt nhả,
Đừng
gièm pha quấy phá hôn nhân.
Một
năm có một mùa xuân,
Mỗi
ngày chỉ một giờ dần đầu tiên.(5)
Cho
muôn khoảnh ruộng tốt xanh,
Chẳng
bằng cho chúng nghề lành trong tay.
Mộng
làm giầu thường hay thất đức,
Làm
điều nhân khó được giầu sang.
Thuốc
hay khó chữa bệnh oan,
Của
nhặt được khó mở mang giầu bền.
Bất
nghĩa mà trở nên phú quý,
Như
mây bay bọt khí nổi trôi.
Phúc
do trong sạch lòng người,
Đức
từ kiên nhẫn sống đời yêu thương.
Tham
lam lắm tất vương tai họa,
Sống
bất nhân tội chả thoát đâu.
Tiểu
nhân chẳng giúp ai đâu,
Bởi
trong lòng họ, như đầu mũi kim.
Chỉ
gai góc rắp tìm mưu kế,
Cốt
hại người để mong lợi mình.
Người
quân tử có bất bình,
Liệu
mà xa lánh, kẻo sinh hận thù.
Tình
người khác chi tờ giấy trắng,
Như
cuộc cờ vốn chẳng giống nhau.(6)
Khéo
mà ứng xử với nhau,
Đừng
làm ai đó phải chau đôi mày,
Chớ
mạt sát day tay mắm miệng,
Để
người ta phải nghiến hàm răng.
Ngựa
gầy nên kém chạy hăng,
Người
không hồ hởi phải chăng vì nghèo.
Sẵn
tiền, rượu thì nhiều bạn đấy,
Lúc
lâm nguy nào thấy một ai.
Luật
trời báo ứng chẳng sai,
Không
trước mắt, cung lâu dài chứng minh.
-
(1) Câu này nguyên chữ Hán là: "Ngô nhật tam tỉnh
ngô thân"
-
(2) Nguyên chữ Hán là: "Vật đắc tồn nhi vong cổ
,Vật khẩu thị nhi tâm phi"
-
(3) Nguyên chữ Hán là: "Đạo hữu căn viễn cổ, Ngôn
vô dực trường phi"
-
(4) Nguyên chữ Hán là: "Nhất ngôn ký xuất, tứ mã
nan truy"
-
(5) Nguyên chữ Hán là: "Nhất niên tri kế tại ư xuân
,Nhất nhật ư kế tại ư dần", Ý nghĩa răn dạy
phải
có kế hoạch tốt ngay tại thời điểm khởi đầu của
một năm một ngày
-
(6) Nguyên chữ Hán là: "Nhân tình tự chỉ, trương
trương bạch ,Thế sự như kỳ, cục cục tân"
8.Tích
thiện
Bài
thứ bẩy khuyên luôn tích thiện,
Chứa
điều lành như mặt trời lên.
Rất
vô tư, rất tự nhiên,
Sáng
soi muôn nẻo chẳng phiền đến ai.
Chứa
điều ác là tai họa đấy,
Lửa
trên đầu nào thấy mà lo.
Chuyện
ác dù chẳng nói to,
Trên
trời rung động tự hồ sấm vang.
Việc
mờ ám tưởng không ai biết,
Nhưng
mắt thần như điện sáng soi. (1)
Giầu
sang đúng phận thì thôi,
Nghèo
hèn xử sự đúng môi trường nghèo.(2)
Suy
từ ta ra nhiều người khác,
Khoe
điều lành, điều ác giấu đi.
Thấy
ai làm ác điều gì,
Khéo
can ngăn, hoặc nghoảnh đi chớ nhìn.
Chuyện
người khác không đem đàm tiếu,
Mặc
người ta, mạnh, yếu, giở, hay.
Nói
nhiều nghe cũng chán chầy,
Khuyên
nhiều sinh oán, bấy nay lẽ thường
Khi
yêu cũng nên lường lúc ghét,
Lúc
ghét nên nhớ đến khi yêu.
Việc
làm, lời nói, ít nhiều,
Phải
nên hướng thiện, phải theo phận mình.
………………………………..
-
(1) Nguyên chữ Hán là: "Nhân gian tục ngữ,Thiên văn
nhược lôi;ám thất khi tâm thần mục như điện"
-
(2) Nguyên chữ Hán là: "Tố phú quý hành hồ phú quý.
Tố bần tiện hành hồ bần tiện"
9.An
phận
Giữ
yên phận là bài thứ tám
Đừng
để người đụng chạm đến ta
Biết
lo tính, biết phòng xa,
Khoan
dung ngay thẳng hẳn là sống lâu.
Nước
chân chính, lòng trời cũng thuận,
Quan
thanh liêm dân hẳn yên lòng
Vợ
hiền là phúc nhà chồng,
Các
con hiếu thảo thì lòng cha yên.
Dẫu
có tài giỏi chớ nên khoe khoác,
Nhiễu
sự sao bằng được an nhàn.
Bốn
mùa ấm lạnh xuềnh xoàng,
Nói
năng thận trọng rõ ràng được yên.
Của
dễ được tất nhiên dễ mất,
Được
vất vả thì mất khó khăn.
Làm
thong thả việc chắc ăn
Việc
đời muôn sự khó khăn ban đầu.
Người
xưa nói những câu triết lý:
Vào
núi bắt hổ dễ như chơi,
Còn
khi mở miệng dạy người,
Khó
khăn nhiều lắm, liệu lời đắn đo.
Quân
tử cần ăn no uống đủ,
Không
cầu kỳ cốt giữ bình yên.
Trò
tìm thầy học dễ tìm,
Thầy
tìm trò tựa mò kim đáy hồ.
Việc
chia chác chẳng lo ít ỏi,
Chỉ
đáng lo cái tội không đều.(1)
Không
lo hoàn cảnh túng nghèo,
Chỉ
lo xã hội nhiều điều bất công.
Quá
nham hiểm bởi lòng tham lắm.
Quá
nhẫn tâm lòng hẳn quá tàn.
.................................
-
(1) Nguyên chữ Hán là: "Bất hoạn quả nhi hoạn bất
quân ,Bất hoạn bần, nhi hoạn bất an"
10.
Đại đạo
Giữ
đại đạo là bài thứ chín,
Lấy
chữ “Trung” chữ “Tín” làm đầu.
Người
quân tử đạo đức cao,
Không
kiêu thái, giữ trước sau chan hòa.
Khi
cần giúp người ta việc gấp,
Chẳng
chọn ngày, đừng bấm ngón tay.
Người
được ta cũng mừng thay,
Người
đau, thông cảm đắng cay cho người.
Nói
thao thao ngàn lời tươm tất,
Cũng
không bằng việc thật đã làm.
Kiếm
lời chê trách nhân gian,
Chính
là chuốc lấy mối oan hại mình.
Ta
giúp người chân tình độ lượng,
Là
góp điều làm phước đáng tin.
Trăm
nghe không bằng một nhìn,
Một
việc thực tế hơn nghìn lời suông.
Việc
trời đất cũng thường thay đổi,
Sáng
gió mưa, chiều đã đẹp trời.
Giống
như cuộc sống một con người
Sáng
chiều, may rủi đầy vơi chuyển vần.
Có
việc đối với ta như thế
Nhưng
với người đâu rễ giống ta
Khi
lời nói trái phát ra,
Tất
nhiên cái họa cũng sà vào theo.
Của
phi nghĩa đưa vào cửa trước,
Nó
cũng tìm đường bước lối sau.
Đừng
làm những chuyện không đâu
Chớ
tham của lạ để sau bận lòng
Việc
đừng quá lao tậm cật lực,
Nên
đắn đo vừa sức thì làm,
Không
lười biếng chẳng tham lam
Học
điều Đại đạo – để làm thực tâm.
11.Độc
thư
Bài
thứ mười khuyên cần đọc sách,
Sách
là thầy dạy mách cho ta.
Bao
điều đạo lý sâu xa,
Văn
minh khoa học bao la đất trời.
Ham
đọc sách thì trời chẳng phụ.
Có
chí bền ắt sẽ làm nên. (1)
Mẹ
cha vui bởi con hiền,
Gia
đình hòa thuận đẹp yên mọi phần
Đạo
đức cao, quỷ thần nể sợ,
Được
mọi người giúp đỡ tin yêu.
Thấy
việc thiện hãy làm theo,
Biết
lỗi sửa lỗi là điều đáng khen
Cách
đối xử phải nên suy xét,
Đừng
cạn tình trái nết – mất lòng.
Muốn
nhanh vội việc khó xong,
Ham
lợi nhỏ việc lớn không hoàn thành.(2)
Tre
uốn mạnh chẳng vênh cũng gẫy,
Chó
cắn càn bởi thấy cùng đường.
Đánh
chuông chuông tất kêu vang,
Người
quá uất ức sẵn sàng đấu tranh.
Chớ
nên hám lợi hám danh,
Ít
ham muốn mới yên lành bền lâu.
.......................
-
(1) Chú thích: Có chí bền ắt sẽ làm nên. Nguyên chữ
Hán là: "Độc thư thiên bất phụ ,Hữu chí sự cảnh
thành"
-
(2) Nguyên chữ Hán là:
"Dục
tất bất đạt,
Kiến
tiểu lợi tắc đại sự bất thành"
12.Do
mệnh
Bài
mười một dạy câu số mệnh
Mọi
điều đều do tiền định cả rồi.
Giầu
sang cũng bởi tại trời,
Công
danh có mệnh, có thời dở hay.
Đồ
ăn uống xưa nay sản xuất.
Cũng
đều do trời đất khởi sinh.
Người
khôn làm đúng phận mình,
Tiểu
nhân mạo hiểm hiếu danh, khoe tài.
Nói
thẳng thường trái tai chẳng thích,
Hãy
xét suy, có ích hãy làm.
Ở
đời lắm thói đa đoan,
Thuốc
đắng giã tật, thế gian tỏ tường.
Thấy
người tốt chớ nên xem thường,
Hãy
nghiêm suy ngẫm tìm đường mà theo.
13.Thành
sự
Bài
mười hai lo toan sự nghiệp
Muốn
thành công phải biết lo xa.
Mưu
sự là ở người ta,
Thành
công tốt đẹp suy ra tại trời.
Có
trường hợp ở nơi nguy bại,
Được
trời phù nên lại thắng to.
Hoặc
khi tai nạn gay go,
Gặp
may lại được trời cho an toàn.
Có
đức mà nghèo hèn cơ cực,
Hẳn
là do nghiệp chướng từ lâu.
Bất
lương mà được giầu sang,
Chắc
là kiếp trước bắc cầu thiên duyên.
Không
thuốc nào chữa bệnh khanh tướng thọ,
Có
tiền đâu mua được con hiền.
Vợ
ngoan chồng chẳng ưu phiền,
Có
con hiểu thảo cha yên cõi lòng.
Bởi
uống say, nói không tử tế,
Vì
tiền tài, huyunh đệ từ nhau.
Nên
xuống ngựa lúc qua cầu,
Có
đường bộ chớ rủ nhau đi thuyền.
Áo
trắng thì bụi đen dễ dính,
Khó
an toàn bởi tính kiêu căng.
Lòng
người hiểm hơn núi rừng,
Hãy
suy luận, để coi chừng đó nghe.
Nếu
phận nghèo thì nên nghèo trước,
Chớ
dã tâm, bạo ngược khởi đầu.
Biết
mệnh là bởi hiểu sâu,
Sống
yên vô sự khác nào thần tiên.
Muốn
sống lâu phải rèn luyện tốt,
Từ
lao động ăn uống thuốc men…
Giữ
gìn chừng mực cho quen,..
Một
ngày vui khoẻ là tiên một ngày.
“Bọ
ngựa bắt con ve tưởng bở
Sẻ
lại rình bọ ngựa kề bên;
Người
săn tặng sẻ mũi tên;
Hổ
lang rình sẵn xông lên vồ người.
Hổ
đắc ý lên rồi định biến,
Ngờ
đâu xa xuống giếng mạng toi!
Mới
hay mạnh yếu ở đời,
Nhãn
tiền báo ứng rạch ròi phân minh”
14.Trí
giả
Bài
mười ba dạy điều trí giả.
Bậc
trí giả trọng mình hơn hết,
Bởi
học nhiều hiểu biết càng sâu.
Chẳng
cần đấu lý với nhau,
Chẳng
cần đấu lực, đối đầu với ai.
Giữ
danh dự trong ngoài kính nể,
Bảo
vệ cho thân thể an toàn
Biết
tự kiềm chế thì yên.
Không
bị nhục cũng chẳng phiền đến thân.
Có
những chuyện người trần khó biết,
Mà
trời cao nghe thấy mọi điều.
Bảo
rằng lỗi nhỏ chẳng sao,
Nhiều
lỗi góp lại lớn lao khó lường.
Một
mình chớ đi đường nguy hiểm,
Thuyền
chở tham sinh chuyện đắm đò.
Chuyện
người ta chớ tò mò,
Có
trách thì trách lỗi to của người.
Thù
oán cũ thì thôi quên tuột
Trước
khoan hòa sau được điều hay.
Yêu
đừng yêu quá đắm say.
Ghét
đừng ghét đắng ghét cay sinh thù.
Có
người chẳng được như ý muốn,
Nên
bảo ban đại lượng thì hơn.
Trọng
danh tiết như Thái sơn,
Người
không thì chẳng giản đơn việc nào.
Giàu
sang chẳng tự cao cậy thế,
Nghèo
hèn không luồn lụy cúi đầu.
Kẻ
vụng chẳng thấy việc đâu.
Người
khéo thì việc bù đầu, luôn tay.
Bậc
trí giả trước đây đúc kết
Ta
nên tìm học biết mà theo
Luật
ông Tiêu Hà dạy sáu điều
Lễ,
ông Phu Tử cũng nêu ba phần.
15.
Minh
châu
Ngọc
Minh châu là thiên mười bốn
Ngợi
ca đức khiêm tốn sáng trong.
Ngọc
là vật quý vô cùng,
Minh
châu nổi sáng trong vùng tối tăm.
Ngọc
muốn đẹp phải năng mài giũa,
Cố
nâng niu gìn giữ kẻo hoài.
Trời
cho ta tấm hình hài,
Phải
lo tự giác mà bồi bổ thêm.
Con
hay, cha chớ nên khen,
Cha
mắc lỗi, con chớ nên nói nhiều.
Thành
công chẳng được tự kiêu,
Hưởng
phúc, càng phải biết điều đừng tham.(1)
…………………
-
(1) Nguyên chữ Hán là: "Thành công bất dĩ tự căng,
Thụ phúc khả thái hoá"
16.Học
vấn
Bài
mười lăm răn đường học hỏi.
Có
tư duy mạnh giỏi hơn người.
Trước
là đẹp đạo đất trời,
Sau
là xây dựng tình người đẹp hơn.
Hiếu
với cha thời con hiếu lại,
Kính
trọng người người lại trọng ta.
Chớ
tin những thuyết tà ma,
Nó
làm chìm đắm xấu xa lòng người.
Người
xưa bảo tiền tài – phấn đất,
Nghĩa
nhân kia mới thật là ngàn vàng.
Đường
dài thử sức gian nan,
Sống
lâu mới biết ruột gan tình người.
Biết
giữ phận thì đời nhàn hạ,
Không
gian tham tai họa khó vào.
Vận
đen vàng hóa ra thau,
Vận
đỏ sắt cũng ra màu vàng tươi.
Rượu
trắng nhuốn đỏ mặt người
Bạc
vàng dễ nhuộm lòng người tối đen.(1)
Nghèo
giữa chợ ai thèm thăm hỏi,
Giàu
trên rừng có khối người thương.
Vẽ
hổ khó vẽ bộ xương,
Biết
người biết mặt khó lường lòng ai.
Không
đáng sợ sức hai con hổ,
Chỉ
sợ người ăn ở hai mang
Sống
đại lượng phúc huy hoàng.
Mưu
sâu tai họa ắt càng thêm sâu.
Vợ
chồng hiệp sức nhau bàn bạc,
Có
tiền mua nhiều lạng vàng dòng.
Vợ
chồng ăn ở khác lòng
Có
tiền đâu dễ sắm cùng cái kim
Trị
nhà như cầm cương ngựa dữ,
Trị
nước như dạo thử cung đàn.
Cho
nên học hiểu và làm,
Lẽ
trời với lẽ dân gian hài hòa,
Muốn
xây phú quý vinh hoa,
Cái
nền học vấn phải là đâu tiên.
.......................
-
(1) Nguyên chữ Hán là: "Bạch tửu hồng nhân diện,
Hoàng kim hắc thế tâm"
17.Tu
đức
Bài
mười sáu thường xuyên tu đức,
Phải
chuyên tâm nỗ lực hàng ngày.
Học
rồi thực tế làm ngay,
Rút
ra kinh nghiệm dở hay sự tình.
Tu
đức tốt tướng sinh ra tướng,
Con
thảo hiền sinh được cháu ngoan.
Nhà
nghèo nhờ vợ đảm đang,
Nước
loạn cầu tướng giỏi giang, trung thành.
Âm
dương hòa không sinh lụt bão,
Vợ
chồng hòa thì đạo nhà nên.
Tránh
điều nghi kỵ hờn ghen,
Bốn
đức tính Công, Dung, Ngôn, Hạnh,
Người
đàn bà gánh nặng lo toan.
Đừng
kiêu sa, chớ lăng loàn,
Đừng
ghen ghét chớ giận hờn với ai.
Gái
yêu chồng đẹp vui mọi vẻ,
Giúp
chồng nuôi con khỏe con ngoan.
Dựng
xây tôn thống họ hàng,
Sáng
trong như ngọc, nết càng đẹp ra.
Khi
lòng dục dâm tà đã mở,
Quên
yêu thương bỏ cả lễ nghi.
Nết
hư dù chỉ một ly,
Tiếng
tăm đồn đại bay đi khắp vùng.
Đàn
bà tiếp khách phải nên nhớ rằng:
Cử
chỉ đẹp, nói nhẹ nhàng,
Khi
đưa tiễn khách xin đừng quá chân.
18.Cát
nhân
Rèn
người tốt là chương mười bẩy,
Sống
nhân từ ai nấy mến thương.
Trời
cho Phúc, Lộc, Thọ trường,
Sống
vui thanh thản đời thường gặp may.
Cha
dạy con từ khi còn nhỏ,
Chồng
khuyên vợ từ khi mới về.
Không
quá vui đến đam mê.
Bài
bạc, nghiện hút, rượu chè, gian dâm.
Tình
dục chớ tham lam buông thả,
Sức
suy tàn rệu rã, ai thương.
Của
quý chớ có phô trương,
Bạc
vàng phải khóa trong dương trong hòm.
Buồng
the chớ để ai nhòm
Của
còn nguyên vẹn, tình còn dài lâu.
19.Lương
tài
Bài
mười tám răn chữ lương tài
Lương
là đạo cao đức trọng
Có
lương tài chết sống thơm danh.
Người
tài lành có bạn lành,
Người
ác bạn ác kết thành tai ương.
Người
lương tài nên thường nói thẳng,
Kẻ
xấu xảo nịnh chẳng thương yêu.
Người
lành nói ít làm nhiều,
Tiểu
nhân múa mép, lắm điều ba hoa.
Người
lành không gian tà uẩn khúc,
Hành
động luôn chính trực, phân minh.
Kiệm
cần có lý có tình,
Để
không mang tiếng rằng mình kiêu sa.
Vụng
may áo gấm cũng hỏng,
Làm
bậy thì phá hỏng cơ ngơi.
Biết
ít thì sống thảnh thơi,
Biết
nhiều lắm chốn, lắm điều thị phi.
Người
giúp việc cần chi đẹp xấu,
Cần
chọn người trung hậu, chăm ngoan.
Lòng
người, nọc rắn khó phân,
Mặt
trời ai biết chuyển vần như xe.
Của
xóm Đông lấy về hôm trước,
Đến
hôm sau nó ngược xóm Đoài
Việc
hôm nay, việc ngày mai.
Hãy
đem hai chữ Lương Tài mà xem.
20.Lập
thân
Bài
mười chín dạy đạo lập thân.
Đạo
lập thân muốn bền muốn vững,
Phải
khôn ngoan trong cứng ngoài mềm,
Phúc
nhà thuận dưới kính trên,
Kiệm
cần kiên nhẫn là nền trị gia,
Làm
quan phải giỏi và liêm khiết,
Cẩn
trọng luôn và biết thương dân.
Mới
hay bí quyết lập thân,
Kiên
trì: Liêm chính kiệm cần thì nên.
21.
Thịnh đức
Bài
hai mươi là thiên thịnh đức
Một
số điều đã được rút ra.
Người
thực tài chẳng ba hoa,
Thường
khi dung mạo cứ là như ngây.
Có
ruộng không cấy cày thì đói,
Có
sách không học hỏi thì ngu.
Trai
không dạy, khác chi lừa,
Gái
ngu thì cũng giống như lợn sề.
Trai
sợ vợ bởi vì nhu nhược,
Gái
kính chồng vì được nết ngoan.
Phải
dè xẻn bởi thiếu ăn,
Sống
xa xỉ bởi nguyên nhân của thừa.
Vừa
lười nhác, lại vừa ngu xuẩn,
Thì
giầu sang đâu đến mà mơ.
Hay
đến thân cũng thành sơ,
Ngồi
dai chủ chẳng bao giờ thích đâu.
Uống
rượu đấu khẩu nhau ít chứ,
Mới
là người quân tử phòng thân.
Thóc
tiền sòng phẳng đồng cân,
Mới
là đức độ, tinh thần trượng phu.
Con
cá bị giật lên bờ
Có
hối cũng chẳng bao giờ được tha.
Làm
việc xấu đã sa pháp luật,
Hối
ba lần cũng thật muộn mằn.
Nước
loạn chớ đến dung thân
Nơi
nguy hiểm chớ bước chân lần vào.
Phép
quyền biến làm sao biết trước,
Phải
đắn đo mong được an toàn,
Lò
lửa ví như phép quan,
Lòng
người như sắt như gang trong lò
Người
yếu phải nương nhờ người mạnh,
Giúp
được người là hạnh phúc thay,
Không
thù dai chẳng hại ai,
Tuy
nhiên vẫn phải nhớ bài phòng thân.
Trên
lượng cả, chẳng cần phạt dưới,
Kẻ
trịch thượng từ chối đừng chơi.
Nước
trong ít cá lội bơi,
Sống
nhiều khe khắt, ít người mến thân.
22.Hiếu
hoàn
Bài
hai mươi mốt hai chữ hiếu hoàn.
Hiếu
hoàn luật xoay vần vay trả,
Báo
ứng nhanh gương đã nhiều rồi.
Nhạt
nồng khéo ở lòng người,
Dở
hay đã có đạo trời phân minh.
Trời
mưa gió thình lình bất chắc,
Người
có khi dồn dập tai ương.
Có
đức dễ được thọ trường,
Tu
nhân tích đức, phúc thường dầy thêm.
Lừa
dối người là mầm tai họa,
Phúc
dầy nhờ lượng cả bao dung.
Cẩn
thận chẳng sợ khốn cùng,
Nhẫn
thì chẳng nhục, vạ không đến mình.(1)
Dạy
con cháu bằng điều từ thiện,
Lấy
khoan dung điều khiển người theo.
Một
năm kế hoạch ăn tiêu,
Không
gì bằng cấy trồng nhiều lúa khoai(3)
Kế
mười năm dài hơn một chút,
Không
gì bằng trồng được nhiều cây.
Còn
như kế hoạch lâu dài,
Là
trồng cây đức dẻo dai liền liền.
Dù
lắm tiền thuốc men tẩm bổ,
Chẳng
bằng đêm nằm ngủ riêng giường.
Dạy
con lần mở văn chương,
Ở
trong vùng bạc kim cương có thừa.
Một
con được ơn vua lộc nước,
Để
cả nhà cũng được thơm lây.
Siêng
năng học tập đêm ngày,
Sống
bình tĩnh được yên lành mãi
Biết
kiệm cần đỡ phải reo neo.
Trên
sông tùy khúc bơi chèo,
Vào
nhà tùy lúc liệu chiều tuân theo.(2)
Để
mà chiêm nghiệm lời này khuyên răn.
Việc
đúng cứ tiến hành đừng sợ,
Trời
sẽ cho phúc ở tầm tay
Lấy
điều đạo lý xưa nay,
Truyền
cho con cháu đời này đời sau.
....................................
-
(1) Nguyên chữ Hán là: "Khi nhân thị hoạ, Nhiêu nhân
thị phúc, Cẩn tắc vô ưu, Nhẫn tắc vô nhục"
-
(2) Nguyên chữ Hán là: "Bình tĩnh thường an, nhã kiệm
thường túc ,Nhập giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục"
-
(3) Nguyên chữ Hán đoạn sáu câu này là: "Nhất niên
kế mạc như chủng cốc. Thập niên chi kế mạc như chủng
mộc
,Của
viễn chi kế mạc như chủng đức"
23.Năng
tĩnh
Bài
hai mươi hai dạy người điều năng tĩnh.
Biết
đắn đo sống hẳn yên lành.
Biết
suy nghĩ việc dễ thành,
Cầu
đâu được đấy vui lành biết bao.
Khi
sống biết lo sau tính trước.
Lúc
lâm chung hẳn được yên lành.
Tuổi
già lắm bệnh phát sinh,
Đều
do lúc trẻ tự mình làm ra.
Lúc
thịnh đạt gian tà trái đạo,
Khi
tuổi già quả báo coi chừng!
Sợ
thay “Đốm lửa thiêu rừng”,
Nửa
câu nói trái, sau đừng khoe khôn.(1)
Biết
điều thiện ôn tồn nhắc bạn,
Chỉ
nơi nguy cho người khách lánh xa.
Khi
lòng hiểm độc gian tà,
Niệm
kinh gõ mõ quả là vô duyên.
Đem
bố thí bằng tiền bất chính,
Cũng
chỉ là vô ích mà thôi.
Chỉ
một hành động xấu chơi,
Nói
khôn nói khéo, ai người còn tin.
Sống
thừa mứa bạc tiền nhung lụa,
Chắc
đâu bằng sống đủ mà vui.
Gần
mực thì ắt phải đen thui
Gần
son thì đỏ sự đời chẳng sai.
Gần
người ngu biến hay thành dốt,
Gần
người hiền càng tốt thêm ra.
Người
quân tử đức nở hoa,
Tiểu
nhân tìm cách xấu xa học đòi.
Ngẫm
xem muôn sự ở đời,
Ác
thì gặp ác, nhân thời gặp nhân.
Con
ngựa cùng, vung chân đập phá,
Chim
cùng đường, liều mổ đòi bay,
Thú
cũng muốn xổng chạy dài,
Bản
năng tự vệ muôn loài bẩm sinh.
Người
giả dối thì đừng bắt chuyện,
Gái
lẳng lơ thì biến cho xa.
Những
người ngay thẳng hiền hoà,
Kiên
tâm gần gũi để mà học theo.
Kẻ
nghiện ngập lêu têu, hợm hĩnh.
Hãy
coi chừng! Cố tránh đừng chơi.
Mới
hay hậu bạc ở đời
Trắng,
đen cũng bởi lòng người mà ra.
..........................
-(1)
Nguyên chữ Hán là:
"Nhất
tinh chi hoả năng thiêu vạn lý chi sơn.
Bán
cũ chi ngôn ngộ Tổn bình sinh chi đức"
24.Thư
tất
Bài
hai mươi ba là bài thư tất
Sách
Bạch Vân kết luận dạy rằng:
Muôn
việc khởi tự cái Tâm,
Nếu
lòng buông thả, lỗi lầm đến ngay.
Học
điều hay tỏ bài chân lý
Bảo
tồn Chân-Thiện-Mỹ sáng trong
Thánh
nhân trợ giúp bao dung,
Tiến–lui,
còn-mất mới mong tinh tường.
Không
để mất kỷ cương chính đạo,
Lời
thánh hiền dạy bảo thiêng liêng:
Hiếu-Trung-Cần-Kiệm-Chính-Liêm
Xa
gần kính trọng, dưới trên thuận hòa.
Sự
kính nhường coi là cái gốc,
Lấy
học hành tri thức nâng lên.
Chân
thành học hỏi thường xuyên,
Muốn
tu cái đức phải nghiêm với mình.
Những
điều giáo huấn anh minh,
Thành
tâm bái phục, ân tình chẳng quên.
Phần
III. Bạch Vân am thi tập
1.
Cư ngao đới sơn
Bích
tẩm tiên sơn triệt để thanh,
Cự
ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo
đầu thạch hữu bổ thiên lực(1),
Trước
cước trào vô quyển địa thanh.
Vạn
lý Đông minh quy bả ác,
Ức
niên Nam cực điện long bình.
Ngã
kim dục triển phù nguy lực,
Vãn
khước quan hà cựu đế thành.
Con
ngao lớn đội núi
(Người
dịch: Đinh Gia Khánh)
Non
tiên ngâm tẩm nước trong xanh,
Bầu
ngọc đội nên, ngao lớn sinh.
Đầu
ngóc, vá trời còn sức đá,
Chân
đưa, lặng sóng chẳng âm thanh.
Biển
Đông, vạn dặm quơ tay nắm,
Nam
cực, muôn năm vững trị bình.
Ta
muốn phù nguy ra sức giúp,
Quan
hà thu lại cựu kinh thành.
Dịch
nghĩa
Nước
biếc ngấm núi tiên trong đến đáy,
Như
con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi
đầu lên, đá có sức vá trời,
Đặt
chân xuống, sóng không có tiếng cuốn đất.
Vạn
dặm biển Đông quơ vào tay nắm,
Ức
năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.
Ta
nay muốn thi thố sức phò nguy,
Cứu
vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua
Sách
Liệt tử, trong thiên Thang vấn có chép rằng ở biển Bột
Hải có năm ngọn núi, chân núi không dính vào đâu cả,
núi cứ theo nước thủy triều mà lên và xuống lênh đênh
trên mặt biển. Thượng đế sợ các ngọn núi ấy trôi
về Tây cực bèn sai con ngao thần rất lớn lấy đầu đội
và từ đó năm ngọn núi ấy mới đứng vững ở một
chỗ.
......................
-
(1) Chú thích: Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực
Theo
Sử ký bổ (Tam hoàng bán kỷ) thì thời Thượng cổ, hai
vị thần là Cung Công và Chúc Dung
đánh
nhau. Đánh mãi không thắng nổi thần Chúc Dung cho nên
thần Cung Công nổi giận, lấy đầu húc núi Bất Chu, làm
đổ núi ấy khiến cho cột chống trời bị gãy. Nữ thần
Nữ Oa, chặt bốn chân con ngao thần làm bốn cực chống
cho trời khỏi sụt xuống.
2.
Du Phổ Minh tự
Loạn
hậu trùng tầm đáo Phổ Minh,
Viên
hoa dã thảo cựu nham quynh.
Bi
văn lạc hoà yên bích,
Phật
nhãn thê lương chiếu dạ thanh.
Pháp
giới(1) ưng đồng thiên quảng đại,
Hương
nhân do thuyết địa anh linh.
Liêu
liêu cổ đỉnh kim hà tại (2),
Thức
đắc vô hình thắng hữu hình(3).
Chơi
chùa Phổ Minh
(Người
dịch: Hữu Thế)
Sau
loạn lại tìm đến Phổ Minh,
Chùa
xưa đá cũ cỏ hoa xanh.
Văn
bia tàn hỏng mờ trong khói,
Mắt
phật lạnh lùng rõi thấu canh.
Giới
pháp phải ngang trời rộng lớn,
Người
làng vẫn nói đất anh linh.
Vắng
không, cổ đỉnh, rày đâu tá!
Mới
biết vô hình thắng hữu hình.
Dịch
nghĩa
Sau
khi loạn lạc lại tìm đến chùa Phổ Minh,
Vẫn
hoa vườn cỏ nội với cửa đá cũ.
Văn
bia mờ nhạt hoà trong làn khói biếc,
Mắt
Phật lạnh lùng soi thấu đêm thanh.
Pháp
giới phải ngang với tầm rộng lớn của trời,
Người
làng vẫn nói đến sự anh linh của đất.
Vắng
vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu?
Thế
mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình.
Chùa
Phổ Minh ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên
Trường, nay thuộc xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, Nam
Định. Chùa được xây dựng từ thời Trần, trong đó có
vạc Phổ Minh nổi tiếng. Vạc đã bị quân xâm lược
Minh phá làm súng đạn năm 1426, khi bị nghĩa quân Lam Sơn
bao vây.
..............................
-
(1)Là thế giới tinh thần, có lý pháp giới (bản thể)
và sự pháp giới (hiện tượng) hai cái pháp giới
này
có quan hệ mật thiết với nhau: "Lý sự vô ngoại",
theo tông Hoa nghiêm trong Phật giáo.
-
(2)Vạc xưa nay còn đâu? Chỉ vạc Phổ Minh bị giặc Minh
phá hoại
-
(3)Cái không có hình tượng cụ thể thì thắng cái có
hình tượng cụ thể. Nhân vẫn cảnh chùa xưa, suy nghĩ
về giáo lý đức Phật, rồi lại liên hệ với vạc xưa,
một vật hữu hình nay không còn, mà tác
giả
đã đề cập tới quan niệm lý Phật giáo.
3.
Hạ
cảnh
Nhật
trường Tân quán tiểu song minh,
Phong
nạp hà hương viễn ích thanh.
Vô
hạn ngâm tình thuỳ hội đắc,
Tịch
dương lâu thượng vãn thiền thanh.
Cảnh
mùa hè
(Người
dịch: Đinh Gia Khánh)
Trung
Tân,cửa nhỏ,sáng ngày trường,
Gió
đượm mùi sen, xa ngát hương.
Vô
hạn tình thơ, ai kẻ hiểu,
Lầu
cao, chiều xế, tiếng ve vang
Dịch
nghĩa
Ngày
dài ở quán Trung Tân cửa sổ nhỏ sáng sủa,
Gió
đượm hương sen, càng xa càng mát.
Tình
thơ vô hạn, ai là người hiểu được,
Chiều
tà, trên lầu, tiếng ve muộn màng vang lên.
4.Khuê
tình
Ngâm
lạc Tây phong trận trận xuy,
Thâm
khuê nhi nữ độc miên thì.
Hốt
văn hàn khí xâm liêm mạc,
Thuỷ
giác nhân tình hữu biệt ly.
Khứ
mộng bất từ sa tái viễn,
U
hoài hoạt động cổ bề ti.
Vô
đoan điểm trích giai tiền vũ,
Nỗi
lòng ở chốn phòng khuê
(Người
dịch: Đinh Gia Khánh)
Buông
tiếng ngâm theo gió Tây,
Phòng
khuê thiếu phụ ngủ đang say.
Chợt
nghe rèm màn thấm hơi lạnh,
Mới
hiểu biệt ly là thế đây.
Sa
tái mộng bay lòng chẳng ngại,
Cổ
bề tiếng dội dạ tràn đầy.
Tí
tách trước thềm mưa chợt gõ,
Tự
hữu u nhân ngữ dạ trì.
Như
ai thủ thỉ buồn canh chầy.
Dịch
nghĩa
Tiếng
ngâm buông xuống theo gió Tây thổi từng trận,
Ở
chốn thâm khuê khi người thiếu phụ ngủ một mình.
Bỗng
nghe hơi lạnh thấm vào rèm màn,
Mới
biết tình người có nỗi biệt ly.
Mơ
mộng ra đi, chẳng nề nơi quan ải sa trường diệu vợi,
U
uất trong lòng dấy lên tiếng trống ở ngoài trận.
Bỗng
đâu tí tách giọt mưa ở trước thềm,
Như
có người mang niềm u uất thủ thỉ trong đêm dài.
5.
Nguyên Đán thuật ho
ài
Kim
ngã hành niên lục thập chi,
Lão
lai khước dữ bệnh tương kỳ.
Tích
xuân cưỡng khuyến sổ bôi tửu,
Ưu
quốc hưu ngôn lưỡng mấn ti.
Chức
nhẫm bất cần ta lãn phụ,
Gia
đình vô giáo tiếu si nhi.
Nhàn
trung liêu ngụ nhàn trung thú,
Khởi
vị phùng nhân thuyết lãng thi.
Tỏ
nỗi lòng trong dịp Nguyên Đán
(Người
dịch: Hữu Thế)
Tuổi
đời ta đã sáu mươi niên,
Tật
bệnh theo già hẹn đến bên.
Lo
nước chớ than đầu đã bạc,
Tiếc
xuân gượng chuốc rượu vài phen.
Nếp
nhà chẳng dạy, cười con dại,
Canh
cửi, không siêng, hổ vợ hèn.
Hãy
gửi thú nhàn vào cảnh rỗi,
Gặp
người, thơ há lạm chê khen.
Dịch
nghĩa
Tuổi
đời của ta nay đã sáu mươi,
Già
đến, lại cùng bệnh tật hẹn hò nhau.
Tiếc
xuân, gượng khuyên mời vài chén rượu,
Lo
nước, đừng nói hai mái tóc đã bạc như tơ.
Canh
cửi chẳng siêng năng, than thở về người đàn bà lười
nhác,
Gia
đình không dạy dỗ, đáng cười cho đứa con ngây dại.
Trong
lúc thảnh thơi hãy gửi cái thú thanh nhàn,
Há
đâu nói về thơ một cách phóng túng với những người
gặp mặt.
6.
Nhân thôn
Tổng
tổng lâm lâm sinh chí phồn,
Sở
cư xứ xứ hữu hương thôn.
Hào
hoa hấp nhĩ tỉ lân hội,
Nhân
hậu y nhiên mỹ tục tồn.
Tác
tức tư đào Nghiêu nhật nguyệt(1),
Âu
ca cộng lạc Thuấn kiền khôn.
Thái
bình tể tướng ư tư hiển,
Xóm
làng
(Người
dịch: Đinh Gia Khánh)
Nườm
nượp sum suê khắp sản sinh,
Thành
làng, mọi chốn có dân đinh.
Hào
hoa tụ hội, nhà liền vách,
Nhân
hậu theo lề, tục tốt lành.
Thoải
mái làm ăn thời thịnh trị,
Chung
vui ca ngợi cảnh thăng bình.
Giữ
coi việc nước vinh vì thế,
Quan
cái tinh xu diệu lý môn.
Mũ
lọng qua làng, sao lướt nhanh.
Dịch
nghĩa
Nườm
nượp sum suê sinh sản ra rất đông đúc,
Nơi
nơi có người ở là có xóm làng.
Hào
hoa tập hợp, xóm giềng kề bên nhau,
Nhân
hậu vẫn thế, phong tục tốt đẹp còn nguyên.
Làm
và nghỉ cùng thoải mái trong ngày tháng đời Nghiêu,
Hò
và hát cùng vui vẻ trong trời đất đời Thuấn.
Quan
tể tướng đời thái bình mở mày mở mặt ở đó.
Mũ
lọng đi nhanh như sao, rực sáng cổng làng
....................
-
(1)Theo sách Mạnh Tử, dân đời vua Nghiêu sống an lạc,
hát rằng: "Nhật xuất nghi tác, nhập nhập nhi tức,
tạc tính nhi ẩm, canh điền nhi thực, đế lực hà hữu
ư ngã tai", nghĩa là: Mặt trời mọc thì dậy đi làm,
mặt trời lặn thì đi nghỉ, đào giếng mà uống, cày
ruộng mà ăn, sức nhà vua có làm gì cho ta đây. Ý nói
đức vua Nghiêu lớn quá, bao trùm tất cả, dân hưởng
cảnh thái bình mà không cần biết là do công ơn của vua
Nghiêu.
7.
Thu thanh
Tiêu
điều thu dạ trích hàn canh,
Ngọc
luật hồi âm ám thổ thanh(1).
Đãn
giác thụ gian minh tích tích,
Hốt
kinh nguyệt hạ hưởng tranh tranh.
Sơ
văn thú phụ sầu vô mị,
Tự
xúc hàn tương nhạ bất bình.
Nghĩ
tác Dĩnh Xuyên Âu Tử(2) phú,
Khủng
hoảng mô phỏng bị thời khinh.
Tiếng
thu
(Người
dịch: Đinh Gia Khánh)
Đêm
thu buồn lạnh, nước cầm canh,
Ngọc
luật âm thầm phát thổ thanh.
Những
thấy trong cây kêu sột soạt,
Chợt
vang dưới nguyệt tiếng lanh canh.
Mới
nghe, vợ lính buồn không ngủ,
Như
gợi, dế mèn kêu bất bình.
Phú,
định làm như ai đất Dĩnh,
Lại
e bắt chước, bị đời khinh.
Dịch
nghĩa
Đêm
thu tiêu điều, giọt nước nhỏ điểm canh lạnh lùng,
Ống
ngọc luật đồng vọng, âm thầm mà phát ra thành tiếng.
Chỉ
nghe thấy trong cây tiếng kêu sột soạt,
Bỗng
giật mình dưới trăng tiếng vang lanh canh.
Mới
nghe, người vợ lính thú buồn rầu không ngủ,
Như
xui con dế gợi nỗi bất bình.
Toan
làm bài phú như Âu Tử đất Dĩnh Xuyên,
E
rằng lại chỉ làm việc bắt chước bị người đời
khinh bỉ.
...........................
-
(1)Chú thích: Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh. Ngọc luật,
ám thổ thanh: ngọc là cái ống bằng ngọc người xưa
đốt tro
của
màng cây sậy bỏ vào trong, đến các tiết hậu như đông
chí, lập xuân, v.v... thì chất tro trong ống luật được
khí trời thổi bay lên, người ta dựa vào đó để xem
thời tiết; ám thổ thanh là ngầm có tiếng thổ, theo
Thái cực đồ thì ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ)
ứng với tứ thời, kim ứng với mùa thu, mộc ứng với
mùa xuân, thuỷ và thổ ứng với mùa đông, hoả ứng với
mùa hè. Ở đây ý nói rằng tuy là đang trong mùa thu mà
trong ống ngọc luật đã ngầm có tiếng thổ, tức là
báo trước sắp tới mùa đông.
-
(2)Chú thích: Dĩnh Xuyên Âu Tử. Âu Tử tức là Âu Dương
Tu, người đất Dĩnh Xuyên, sống vào đời Tống ở Trung
Quốc,
là một danh sĩ có làm bài phú "Thu thanh" (Tiếng
thu) nổi tiếng.
8.
Thuỷ hành phó doanh cảm tác
Chỉ
kỳ thệ phục cựu sơn hà,
Khảng
khái đăng chu phát hạo ca.
Trạo
bãi thuỷ văn đôi bạch tuyết,
Phàm
di nguyệt ảnh lộng hàn ba.
Cô
trung đối việt càn khôn lão,
Tứ
cố vi mang thảo thụ đa.
Ký
thủ tặc nô bình đình hậu,
Trùng
tầm Tân quán lữ ngư hà.
Cảm
tác khi đi thuyền tới doanh trại
(Người
dịch: Hữu Thế)
Định
kỳ khôi phục núi sông xưa,
Khảng
khái lên thuyền cất tiếng ca.
Buồm
chuyển ánh trăng vờn sóng lạnh,
Chèo
khua gợn nước tuyết ngời hoa.
Niềm
trung trời đất già dầu dãi,
Đoái
khắp rừng cây rậm mịt mờ.
Ghi
đợi sau ngày yên giặc dữ,
Lại
về Tân quán bạn tôm cua.
Dịch
nghĩa
Đi
đường thuỷ đến doanh trại cảm hứng làm thơ
Định
kỳ hạn thề khôi phục giang san cũ,
Khảng
khái lên thuyền cất cao giọng hát.
Mái
chèo khua gợn nước, chập chồng những đống tuyết
trắng.
Cánh
buồm theo bóng trăng, giỡn nhởn trong làn sóng lạnh.
Tấm
lòng cô trung dầu dãi, trời đất già nua,
Đoái
trông bốn phía lờ mờ, cỏ cây nhiều lắm.
Ghi
nhớ sau ngày dẹp xong bọn giặc hèn,
9.Trừ
tịch tức sự
Tân
tuế tài lân cựu tuế trừ,
Lão
lai tiếu ngã thái dung sơ.
Kiền
khôn bất tận yên hoa cảnh,
Môn
quán vô tư thuỷ trúc cư.
Lưỡng
độ thủ tằng phù nhật cốc(1),
Nhất
phong thư khẳng thướng công xư(2) (xa),
Đêm
cuối năm tức sự
(Người
dịch: Đinh Gia Khánh)
Năm
cũ vừa qua, năm mới tới,
Tự
cười già lão lại lười khờ.
Khói
hoa nọ khắp trong trời đất,
Tre
nước đâu riêng của một nhà.
Việc
lớn, hai phen từng gắng sức,
Xe
công, một lá chẳng dâng thơ.
Niên
niên quản đắc xuân quang hảo,
Tri
thị thiên tâm độc hậu dư.
Năm
năm làm chủ ba xuân đẹp,
Biết
rõ: ơn trời riêng được nhờ.
Dịch
nghĩa
Năm
mới vừa đến năm cũ hết,
Về
già tự cười mình lười nhác sơ xuất.
Cảnh
khói hoa là bất tận trong trời đất,
Nơi
có nước có tre, không giữ riêng cho nhà cửa mình.
Hai
phen đã ra tay phò xe vua,
Một
phong thư đâu có chịu dâng lên xe công.
Năm
năm được làm chủ ánh sáng đẹp mùa xuân,
Biết
đó là lòng trời riêng hậu với ta.
.....................
-
(1) Bánh xe mặt trời... Chỉ xe vua, nghĩa rộng là ngôi
vua.
10.
Vũ
Âm
dương hoà hợp vận huyền ky (cơ),
Giải
tác cam lâm hỷ cập thì.
Bái
tự cửu thiên ân ký ốc,
Nhuận
triêm thứ thổ vật hàm nghi.
Dân
tô nghê(1) vọng vương sư chí,
Sĩ
hấp phong thành thánh giáo thi.
Vũ
thuận cố đăng kim thượng thuỵ,
Thái
Bình hựu nhất thử hưu kỳ.
Mưa
(Người
dịch: Đinh Gia Khánh)
Hoà
hợp âm dương, máy chuyển vần,
Mừng
cơn mưa ngọt, tưới vừa tuần.
Chín
trời đày rẫy, ơn tràn khắp,
Muôn
vật xênh xang, đất thấm nhuần.
Gặp
hạn, chờ mưa, dân đợi cứu,
Nên
phong, thành giáo, sĩ chung phần.
Điềm
lành mùa tốt, nhờ mưa thuận,
Cảnh
thái bình, đây lại một lần.
Dịch
nghĩa
Máy
huyền diệu chuyển vận, âm dương hoà hợp,
Mừng
được kịp thời vụ, phát ra trận mưa ngọt.
Rào
rạt tự chín tầng trời, ơn đã đầy rẫy,
Thấm
nhuần mọi khoảng đất, mọi vật thoải mái.
Để
được sống, dân mong quân nhà vua đến như đợi mống,
Kẻ
sĩ hợp nên phong hoá thi hành được giáo hoá của thánh
nhan.
Mưa
thuận hoà, lúc được mùa, đó là điềm lành của nhà
vua,
Thái
bình đây lại là một thời kỳ tốt đẹp
.............................
-(1)Tô
là sống lại, nghê là cầu vồng, mống là ráng mây. Vua
Thành Thang đánh vua Hạ Kiệt tàn bạo, dân ngóng
trông
quân vua Thành Thang đến, có lời rằng: "Hề ngã hậu,
hậu lai kỳ tô", nghĩa là: Đợi vua ta đến, vua ta
đến thì
dân
ta được sống lại. Sách Mạnh Tử viết rằng: "Dân
vọng chi nhược đại hạn chi vọng vân nghè", nghĩa
là: Dân
mong
đợi như khi đại hạn mà mong có mây, có mống.
11.
Xuân đán cảm tác
Hành
niên thất thập tứ niên dư,
Hỷ
đắc đầu nhàn phỏng cựu cư.
Đầu
năm cảm xúc làm thơ
(Người
dịch: Đinh Gia Khánh)
Tuổi
đời đã quá bảy mươi tư,
Mừng
được về nhàn, thăm chốn xưa.
Tuế
thuỷ bàng quan tân vũ trụ,
Gia
bần duy phú cựu thi thư.
Tú
hoa dã trúc tam xuân hảo,
Tịnh
nguyệt minh song nhất thất hư.
Thuỳ
thị thuỳ phi hưu thuyết trước,
Lão
cuồng tự tiếu thái dung sơ
Năm
mới, khắp xem tân vũ trụ,
Nhà
nghèo, riêng sẵn cựu thi thư.
Tre
hoang, hoa đẹp, ba xuân tốt,
Cửa
sáng, trăng trong, nhà trống trơ.
Ai
phải, ai sai, thôi chẳng nói,
Tự
cười già nhác lại cuồng khờ.
Dịch
nghĩa
Tuổi
đời đã ngoài bảy mươi tư,
Mừng
được cảnh nhàn về thăm chỗ ở cũ.
Đầu
năm nhìn quanh vũ trụ mới,
Nhà
nghèo, chỉ giàu sách vở cũ.
Hoa
đẹp tre hoang ba xuân tươi tốt,
Trăng
trong cửa sổ sáng, một căn nhà trống.
Ai
phải ai trái, thôi không nói làm gì,
Già
ngông, tự cười mình lười nhác quá
12.
Xuân hàn
Thập
nhị thiều quang(1) xuân nhất đoàn,
Nhất
thiên liệu tiễu tống dư hàn.
Khinh
âm tá vũ xâm hoa dị,
Tàn
tuyết nhân phong truỵ liễu nan.
Tú
thát giai nhân đê ngọc trướng,
Hương
nhai tuý khách xúc kim an(2).
Toàn
kiền tự hữu thần công tại,
Dĩ
bá dương hoà mãn tế bàn(3)
Rét
mùa xuân
(Người
dịch: Lô Công)
Xuân
quang chín chục trải mười hai,
Đưa
tiễn hơi dư lạnh một trời.
Ngày
rợp mưa phùn hoa dễ thấm,
Tuyết
tan gió phất liễu khôn rơi.
Nhàvàng
ngườiđẹp thầm buông trướng.
Phố
vắng làng say vội giục roi,
Mầu
nhiệm cơ thần xoay chuyển lại,
Dương
hoà chan chứa khắp nơi nơi
Dịch
nghĩa
Mười
hai thiều quang, một vừng xuân sắc,
Một
ngày lành lạnh tiễn đưa cái rét còn lại.
Trời
râm mát nhờ mưa dễ thấm vào bông hoa,
Tuyết
tàn bị gió rơi xuống cành liễu.
Giai
nhân trong phòng gấm rủ thấp màn ngọc,
Ngoài
đường sực nức hoa thơm, khách say giục giã yên vàng.
Xoay
chuyển càn khôn, tự có công phu thần diệu,
Đã
gieo rắc khí dương hoà khắp cả trời đất.
................................
-
(1)Chú thích: thiều quang. Ánh sáng đẹp của mùa xuân.
Cũng có nghĩa là ngày xuân "Thiều quang chín chục"
là chín mươi ngày xuân. Ở đây "Mười hai thiều
quang" tức là đã mười hai ngày xuân. Tác giả làm
bài thơ này vào đầu xuân, tức ngày mười hai tháng
Giêng, lúc còn rét nhưng đã sang xuân.
-
(2)Chú thích: Hương nhai tuý khách xúc kim an. Vì rét, khách
làng say ở phố thơm (phố có giai nhân) cũng phải giục
ngựa đi lanh, không thể khề khà thưởng thức được.
-(3)Trang
Tử có câu: "Thượng tế ư thiên, hạ bàn ư địa",
nghĩa là: Trên rộng đến trời, dưới khắp cả đất.
Sau người ta dùng gọn bốn từ "Tế thiên bàn địa"
như là một thành ngữ. Ở đây, tác giả lại lược đi
hai từ, chỉ còn hai từ "tế bàn" nhưng cần hiểu
như nghĩa của cả câu "tế thiên bàn địa".
Bạch
Vân ca
1.
Bạch Vân ca
Nước
Nam thường có thánh tài.
Sơn
hà vững đặt ai hay tỏ tường.
Kìa
Nhị Thuỷ, nọ Dao Sơn,
Bài
ngọc dát nổi, âu vàng Trời cho.
Học
cách vật mới dò tới chốn,
Chép
ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn
việc cũng bởi tại người,
Suy
ra mới biết sự đời dường bao.
Dẫu
ai có vàng trau nghìn hột,
Châu
bái hơn chữ một nghĩa mười.
Tiên
Hoàng từ trước mở ngôi,
Cờ
lau tập trận thay Trời trị dân.
Mới
đươc mười hai dư xuân,
Lê
Hành kế vị, xa gần âu ca.
Ba
mươi năm ngôi nhà được lẻ,
Đến
Ngoạ Triều nào kẻ tài hay.
Ngôi
Trời dể Lý vào thay,
Tám
cành hoa nở dến ngày dực phân.
Chiêu
Hoàng là Á Nữ Quân,
Thấp
bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.
Thập
nhị thế, tiếng đồn nhân hậu;
Trăm
bảy mươi ghi dấu thất niên.
Đông
A chốn ấy còn bề,
Quý
Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
Đại
Ngu được mười bốn năm;
Hậu
Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi.
Suy
ra mới biết sự Trời;
Lam
Sơn khởi nghĩa là đời Lê Gia
Tây
Sơn sừng sực kéo ra,
Ngẫm
xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến
Phụ Nguyên đòi còn chinh chiến,
Trả
bao thu dâu biển cát lầm
Rừng
xa vực thẩm nguồn thâm,
Nào
ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy.
Ấy
những quân đời này thế ấy,
Lòng
Trời xui ai nấy biết đâu.
Chớ
đừng tham của làm giàu,
Tìm
nơi tam hiểm, ngỏ hầu bảo thân.
Đà
Giang chốn ấy cũng gần,
Kim
Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi.
Ba
Thục riêng một góc trời,
Thái
Nguyên một dải là nơi trú đình.
Tư
bề núi đá xanh xanh,
Có
đường tiểu mạch nương mình ai hay.
Bốn
bụt xuất thế dã chầy,
Chưa
chọn được ngày ra của nhân dân.
Ấy
là điềm xuất thánh quân,
Hễ
ai biết được thì thân mới toàn.
Chữ
rằng hữu xạ tức tự nhiên hương,
Có
phải tầm thường thuốc đấu bán sao?
Nắng
lâu phải có mưa rào,
Vội
chi tát nuớc xôn xao cày bừa.
Hạn
rồi thì phải có mưa,
Buồm
giương gặp gió, cày bừa gặp cơn.
Tuần
này thánh xuất Khâm phương,
Sự
thực đã tường, chẳng phải lo suy.
Quần
hùng binh dậy sơn khê,
Kẻ
khoe cứu nước, người khoe trợ thời.
Xem
thấy những sương rơi tuyết lạnh,
Loài
bất bình tranh cạnh hung hăng.
Một
cơn sấm dậy đất bằng,
Thánh
nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
Lược
thao văn vũ tài tình,
Mới
hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
Tam
công gặp hội vui mừng,
Bỏ
khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bỏ
khi chém rắn vẽ rồng,
Bỏ
khi non Bắc ải Đông mịt mù.
Chó
mừng chúa, gà bày cục tác,
Lợn
ăn no thả rác nằm chơi.
Đó
mới kể là đời thịnh thế,
Mà
thiên hạ sau sẻ làm hai.
Người
Đoài cũng thực ấy tài,
Mà
cho người Sở toan bài lập công.
Bởi
Trần Vương ngu không kể siết,
Mới
phen nầy dê lại giết dê.
Đến
khi thức tận binh bì,
Âm
binh ở giữa, dễ thì biết sao.
Trời
cho ta mang dao chém quỷ,
Khắp
dưới Trời bình trị quỷ thư.
Ai
từng cứu con thơ xa giếng,
Chớ
một lòng chinh chiến phá nhau.
Muôn
dân chịu những âu sầu,
Kể
dư nhị ngũ mới hầu biết cho.
Chốn
Đông Nam lò dò khổ ải,
Lánh
cho xa kẻo phải đao binh.
Bắc
phương chín thực đế kinh,
Náu
mình chưa dể náo danh được nào.
Vả
người là đúng anh hào,
Đánh
làm sao được ước ao đêm ngày.
Bỏ
khi kẻ Việt người Hồ,
Bỏ
khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Càn
khôn phủ tái vô lương,
Đào
viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ
nhị ngũ thư hùng vi quyết,
Đảo
Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta
hồ vô phụ vô quân,
Đào
viên tản lạc, ngô dân thủ thành.
Càn
khôn phù tái vô lường,
Đào
Viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ
nhị ngũ thư anh hùng vị quyết,
Đảo
Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta
hồ vô phụ vô quân,
Đà
Giang phúc địa giáng linh,
Cửu
trùng thụy ứng lòng thành ngũ vân.
Phá
điền thiên tử giáng trần,
Dũng
sĩ nhuợc hải, mưu thần như lâm.
Trần
Công nãi thị phúc tâm,
Giang
hồ sử sĩ đào tiềm xuất du.
Tương
thần hệ xuất Y, Chu,
Thử
kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành.
Hiện
xung thiện hạ thái bình.
2.
Cảm hứng
Thái
hoà vũ trụ bất Ngu, Chu,
Hổ
chiến giao tranh tiến lưỡng thù.
Xuyên
huyết sơn hà tuỳ xứ hữu.
Uyên
ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng
hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu
hoạn ưng phòng nhập thất khu,
Thế
sự đáo đầu lưu thuyết trước,
Tuý
ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
Cảm
hứng
(Người
dịch: Ngô Lập Chi)
Non
sông nào phải buổi binh thời,
Thù
đánh nhau chi khéo nực cười.
Cá
vực, chim rừng, ai khiến đuổi ?
Núi
xương, sông huyết, thảm đầy vơi.
Ngựa
phi ắt có hồi quay cổ,
Thú
dữ nên phòng lúc cắn người.
Ngán
ngẩm việc đời chi nói nữa,
Bên
đầm say hát nhởn nhơ chơi.
……………………….
Trương
truyền bài thơ này làm ra để tiên đoán việc nhà Lê sẽ
trung hưng và nói đến việc họ Trịnh chuyên quyền lấn
áp vua lê. Và những việc của ông tiên đoán điều không
sai một mảy.
3.
Hữu
cảm kỳ 1
Nghịch
tặc xương cuồng phạm đế kinh,
Chủ
ưu thần nhục trọng thương tình.
Hề
tô cửu uất thương sinh vọng,
Ðiếu
phạt thuỳ hưng thời vũ binh.
Có
cảm xúc kỳ 1
(Người
dịch: Ngô Lập Chi)
Giặc
giã tung hoành lấn đế kinh,
Vua
tôi lo lắng xiết bao tình.
Mong
mưa, chan chứa lòng dân vọng,
Trừ
bạo, tưng bừng đạo nghĩa binh.
Bốn
bể vui theo người đạo đức,
Khắp
nơi lại thấy cảnh thanh bình.
Tứ
hải y quy dân đới cựu,
Cửu
thiên chiêu yết nhật trùng minh.
Cổ
lai, nhân giả tư vô địch,
Hà
tất khu khu sự chiến tranh.
Xưa
nay nhân giả là vô địch,
Lọ
phải khư khư thích chiến tranh.
4.
Hữu cảm kỳ 2
Lạc
lạc can qua hận mãn tiền,
Nhân
dân bồn thoáng dục cầu tiền.
Điên
liên huề bạo ta vô địa,
Ái
hộ căn liên hạnh hữu thiên.
Chỉ
định vị văn quy mã nhật,
Khai
minh cấp tưởng thuộc trư niên.
Nhất
chu khí vận chung nhi thuỷ,
Bác,
phục đô tòng thái cực tiên.
Có
cảm xúc kỳ 2
(Người
dịch: Ngô Lập Chi)
Ngán
nỗi can qua mãi thế ư
Nhân
dân mong được chốn an cư
Kéo
nhau lũ lượt tìm nơi ẩn
Cứu
kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ
Bình
định còn chờ ngày nghỉ ngựa
Thái
bình những đợi buổi năm trư
Tuần
hoàn một lẽ cùng chung thuỷ
Bác
phục nguyên từ thái cực xưa.
Sấm
Trạng Trình (*) Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán
Lịch
sử khoa cử Việt Nam có hàng chục trạng nguyên, nhưng ít
có ông trạng nào mà tên tuổi lại được nhắc tới với
nhiều giai thoại kỳ bí như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 -
1585). Là một nhà thơ lớn của dân tộc, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đề cao tư tưởng nhân nghĩa, hòa bình. Chính ông
là người đầu tiên nhắc tới hai chữ Việt Nam trong các
tác phẩm của mình. Là một người thầy lớn, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.
Học trò của ông, người theo nhà Mạc, người theo nhà
Lê. Ngoài triều Mạc, cả họ Trịnh, họ Nguyễn, những
người thuộc các phe đối lập, cũng đều tôn kính ông,
thường xin ý kiến ông về nhiều vấn đề hệ trọng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho tất cả. Họ đều thấy
sự chỉ dẫn của ông là đúng, nên ông được xem như
bậc đại hiền, một ông trạng tiên tri...
Những
lời khuyên làm nên sự nghiệp
-
Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh ruột là Nguyễn Uông
bị Trịnh Kiểm (anh rể) giết, bèn sai người đến xin ý
kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống
ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp, ông
dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò
và nói:
"Hoành
sơn nhất đái, khả dĩ dung thân"
(Một
dải Hoành Sơn có thể dung thân được)
Hiểu
được ý ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin với anh rể
Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo
Ngang trở vào, từ đó lập ra nhà Nguyễn ở phương nam.
Về sau sử nhà Nguyễn sửa thành "vạn đại dung
thân", hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.
-
Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê để tự
xưng vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn
Bỉnh Khiêm, ông không trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa,
thắp hương mà nói: "Mấy năm nay mất mùa, nên tìm
thóc giống cũ mà gieo". Rồi lại bảo chú tiểu quét
dọn chùa sạch sẽ và nói: "Giữ chùa thờ Phật thì
ăn oản". Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà
Lê mà phò Vua Lê để lập nghiệp Chúa.
-
Phùng Khắc Khoan đến gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm, với ý
muốn nhờ thầy cho một lời khuyên: Có nên bỏ nhà Mạc
để vào Thanh Hóa với triều đình Lê - Trịnh? Cả buổi
chiều trò chuyện, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hỏi tình hình,
nói chuyện văn chương chứ không trả lời. Đêm ấy
Phùng Khắc Khoan ngủ lại tại nhà thầy. Sang canh tư,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đến phòng ngủ của học trò, đứng
ngoài gõ cửa và nói vọng vào:
"Gà
đã gáy rồi, trời đã sáng, sao không dậy, ngủ mãi ử"
Phùng
Khắc Khoan nghe xong, suy nghĩ, và đoán rằng thầy gián
tiếp bảo thời cơ đã đến, có thể vào giúp nhà Lê.
Ông vội vàng thu xếp hành lý, đợi đến lúc mặt trời
mọc thì vào giã từ thầy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không
nói gì, chỉ cuốn một chiếc chiếu ngắn ném theo. Phùng
Khắc Khoan nhặt lấy chiếu, vừa đi vừa nghĩ:
"Phải
chăng đây là ý dặn mình cần hành động gấp và dứt
điểm như cuốn chiếu"
-
Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho người đến
hỏi ông về kế lâu dài. Ông đáp: "Cao Bằng tuy
tiểu, khả diên sổ thế" (Đất Cao Bằng tuy nhỏ
nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời). Sau
quả đúng như vậy. Những lời sấm cho nhiều đời sau.
Dân gian lưu truyền nhiều bản Sấm ký được cho là của
ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán - Nôm còn
giữ được bốn bản. Tuy nhiên các bản này đều không
có tên người chép, chép từ bao giờ và chép ở đâu? Do
vậy, chúng ta cần phải làm rõ vấn đề đâu là khả
năng dự báo xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm do kiến thức
và kinh nghiệm đã đem lại, đâu là những điều mà
người đời đã gán ghép cho ông? Mặc dù là "tồn
nghi" nhưng chúng tôi cũng xin trích ra để bạn đọc
cùng khảo cứu.
-
Truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn Bỉnh
Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển
gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư
ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến
đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương
nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến
gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách,
nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm
lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì
cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi
vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:
"Ngã
cứu nhĩ thượng lương chi ách
Nhĩ
cứu ngã thất thế chi tôn
(Ta
cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi
Ngươi
nên cứu cháu bảy đời của ta)
Quan
vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy
đời của Trạng hết sức tử tế.
-
Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 - 1840) trong dân gian lưu
truyền một câu sấm: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại
vi Vương" (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại
làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa nghi. Biết được mấy
câu sấm
ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm
giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ
là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ
Trạng Trình. Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh
triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây
thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn
trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ
tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh
giấy đề chữ:
"Minh
Mệnh thập tứ
Thằng
Trứ phá đền
Phá
đền thì lại làm đền
Nào
ai cướp nước tranh quyền gì ai".
Nguyễn
Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn
cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng
Trình.
Ở
một tập sấm mở đầu có các câu:
"Nước
Nam thường có thánh tài
Sơn
hà vững đạt mấy ai rõ ràng
Bãi
ngọc đất nổi, âu vàng trời cho
Học
cách vật mới dò tới chốn..."
Có
người cho rằng những lời thơ ấy đã khẳng định đất
nước có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ
vững đất
nước
qua biết bao nguy biến. Đất nước cũng có nhiều tài
nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải
chăng
là Vũng Tàu - Côn Đảo? Nơi có tiềm năng về dầu khí
và có vị trí kinh tế chiến lược? Những lời sấm ấy
cũng
khẳng
định phải có khoa học - kỹ thuật (học cách vật) mới
có thể khai thác tốt và sử dụng tốt những tài nguyên
đó, những âu vàng trời cho.
Tập
sấm còn đề cập tới một bậc Thánh giúp đời:
"Một
đời có một tôi ngoan,
Giúp
chung nhà nước dân an thái bình
Ấy
điềm sinh Thánh rành rành chẳng nghi"
……
Trong
tập sấm cũng ghi một lời rất đặc biệt:
"Hồng
Lam ngũ bách niên thiên hạ
Hưng
tộ diên trường ức vạn xuân"
(Đất
nước Hồng Lam này sau ta 500 năm
sẽ
là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân)
Nguyễn
Bỉnh Khiêm mất năm 1585, thọ 94 tuổi. Ba trăm năm sau,
trong bộ sách lớn "Lịch triều hiến chương loại
chí",
nhà
văn hóa Phan Huy Chú đã coi Nguyễn Bỉnh Khiêm là "Một
bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở".
...........................................................
(*)
Xưa nay có rất nhiều bản khác nhau vì nhiều người sửa
đổi. Không biết bản nào là bản chính, nên trước khi
san
định,
nghiên cứu, chúng ta phải sưu tập tài liệu. Tại các
thư viện Việt Nam nhất là tại Hà Nội có nhiều bản
Sấm
Trạng Trình chữ Nôm và các bản này cũng
khác nhau. Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm
đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc
ngư Hoàng Xuân và Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc
của bản quốc ngữ Mai Lĩnh.` Ngoài bản A còn có ít
nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên
quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán
Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là
Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội.
Trước 1975, tại miền Nam đã có khoảng 20 bản quốc
ngữ, nay Hà Nội cũng in thêm vài bản. Bản tiếng quốc
ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn
tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 mà hiện nay vẫn
chưa tìm được.
Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm
ký (I)
Khỉ
hú trời Nam cá hoá rồng,
Gà
kêu Nam Bắc hội Hoa Long,
Lần
tay đếm lại Năm Ba Chín,
Mới
thấy điềm may giống Lạc Hồng.
Chăm
chỉ chờ ngày sang Mậu Ngũ,
Ước
ao đặng thấy buổi Canh Thân,
Cho
hay bốn bể ba đào dậy,
Cù
rống kêu vang giống Lạc Hồng.
………………..
Sấm
ký của Trạng Trình đối với nước Việt.
Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm
ký (II)
1.
Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy
trong quốc ngữ lập tành nên câu
Một
câu là một nhiệm màu
Anh
hùng gẫm được mới hầu giá cao
5.
Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa
cung tay xe nhật phù lên
Việt
Nam khởi tổ gây nên
Lạc
Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh
suy bĩ thái chẳng thường
10.
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề.
Ðến
Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ
Mở
bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự
đao phút chốc đổi thay (1)
Thập
bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên (2)
15.
Ðông A âm vị nhi truyền (3)
Nam
phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh (4)
Chấn
cung hiện nhật quang minh (5)
Sóng
lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài
cung vẻ rạng trăng thu
20.Ra
tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng
cửu thiên ám vừng hồng nhật (6).
Dưới
lẩn trên ăn vẫn uống quen
Sửa
sang muôn vật cầm quyền
Ngồi
không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25.Kìa
liệt vương khí hủ (7) đồ ủng
Mặc
cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời
sinh ra những kẻ gian
Mặc
khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo
vàng ấm áp đà hay
30.Khi
sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy
đạc điền làm công thiên hạ
Ðược
mấy năm đất lở riếng (8) mòn
Con
yết ạch ạch tranh khôn
Vô
già mở hội mộng tôn làm chùa
35.Cơ
trời xem đã mê đồ
Ðã
đô lại muốn mở đô cho người
Ấy
lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt
vạn dân cưu giận nhạn (9) than
Dưới
trên dốc trí lo toan
40.Những
đua bán tước bán quan làm giàu
Thống
ru nhau làm mồi phú quí
Mấy
trung thần có ý an dân
Ðua
nhau làm sự bất nhân
Ðã
tuần rốn bể lại tuần đầu non
45.Dư
đồ chia rẽ càn khôn (10)
Mối
giường ( 11) man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội
sang giàu giết người lấy của
Sự
có chăng mặc nọ ai đôi (12)
Việc
làm bất chính tơi bời
50.Mình
ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem
tượng trời đã gia (13) ra trước
Còn
hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng
phong cả sớm liền trưa
Ðã
đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55.
Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể
vạn dân dê lại giết dê
Luôn
năm chật vật đi về
Âm
binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy
thành đô tiếng kêu ong ỏng
60.
Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem
người dường vững chiêm bao
Nào
đâu còn muốn ước ao thái bình
Một
góc thành làm tám chúng quỷ
Ðua
một lòng ích kỷ hại nhân
65.
Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng
khua mỏ cá , làng phân điếm tuần (14)
Tiếc
là những xuất dân làm bạo
Dục
khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân
danh trọn hết đâu đâu
70.
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm
già lạc dấu khôn về
Mèo
non chi chí tìm về cố hương
Chân
dê móng khởi tiêu tường
Nghi
nhau ai dễ sửa sang một mình
75.Nội
thành hoảng hốt hư kinh (15)
Ðầu
khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở
mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa
hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc
trung kinh dụng cáo không
80.Giữa
năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà
đâu sớm gáy bên tường
Chẳng
yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy
binh cờ phất vầng hồng
Bộ
binh tấp nập như ong kéo hàng
85.
Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy
Bắc binh sang việc gì chăng ?
Ai
còn khoe trí khoe năng
Cấm
kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa
từng thấy đời nào sự lạ
90.
Bỗng khiến người giá họa cho dân
Muốn
bình sao chẳng lấy nhân
Muốn
yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Ðã
nên si Hoàn Linh đời Hán (16)
Ðúc
tiền ra bán tước cho dân
95.Xun
xoe những rắp cậy quân
Chẳng
ngờ thiên xoay vần đã công
Máy
hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng
báo thù ai dễ đã nguôi (17)
Thung
thăng tưởng thấy đạo trời
100.
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra (18)
Cát
lầm bốn bể can qua
Nguyễn
thì chẳng được sẽ ra lại về (19)
Quân
hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ
xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105.
Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ
ma chật vật biết trời là đâu ?
Thương
những kẻ ăn rau ăn rới (20),
Gặp
nước bung (21) con cái ẩn đâu
Báo
thù ấy chẳng sai đâu
110.Tìm
non có rẫy chưng sau mới toàn
Xin
những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy
đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho
nên phải báo trầm luân
Ai
khôn mới được bảo thân đời này.
*****
115.
Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí
anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ
rằng lục thất nguyệt gian
Ai
mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ
nhân kiến (22) đã dời đất cũ
120.
Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) (23) binh ra
Bốn
phương chẳng động can qua
Quần
hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy
giờ mở rộng qui khôi
Thần
châu thu cả mọi nơi vạn toàn
*****
125.
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng
phúc xưa đã định tây phong
Làu
làu thế giới sáng trong
Lồ
lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ
sinh tài lạ khác thường
130.Thuấn
Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem
ý trời có lòng khải thánh
Dốc
sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Chọn
Đẩu, Thai (24) những vì sao cả
Dùng
ở tay phụ tá vương gia
135.
Bắc phương chính khí sinh ra
Có
ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song
thiên nhật rạng sáng soi
Thánh
nhân chẳng biết thì coi cho tường
Ðời
này thánh kế vi vương
140.Ðủ
no đạo đức văn chương trong mình
Uy
nghi trạng mạo khác hình
Thác
cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng
nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ
cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145.
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên
văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở
đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem
sắc mây đã biết thánh long
Thánh
nhân cư có thụy cung
150.
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại
dặn đấng tú nam chí cả
Chớ
vội vàng tất tả chạy rông
Học
cho biết lý kiết hung
Biết
phương hướng hội có dùng lầm chi.
155.
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất
kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa
những kẻ vội lòng phú quí
Xem
trong mình một tí (25) đều không
Ví
dù có gặp ngư ông
160.Lưới
chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin
khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng
trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm
dương cơ ngẫu ngô sinh
Thái
nhâm thái ất trong mình cho hay
165.
Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen
Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ
thông yên thủy, thần kinh
Ðược
vào trận chiến mới rành biến cơ
Chớ
vật vờ quen loài ong kiến
170.
Biết ray tay miệng biến? nói không
Ngõ
hay gặp hội mây rồng
Công
danh choi chói chép trong vân đài
Bấy
giờ phỉ sức chí trai
Lọ
là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175.Nặng
lòng thật có vĩ kinh
Cao
tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên
trời có mấy vì sao
Ðủ
no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước
Nam thường có thánh tài
180.Ai
khôn xem lấy hôm mai mới tường
So
mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ
hậu mai có chí sẽ cho
Trước
là biết nẻo tôn phò
Sau
là cao chí biết lo mặc lòng
*****
185.Xem
đoài cung đến thời bất tạo
Thấy
vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau
Nguôi
lòng tham tước tham giàu
Tìm
nơi tham ( tam ?) hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ
con mang mệnh tướng quân
190.Ngỡ
oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai
lấy gương vua U thủa trước
Loạn
ru vì tham ngược bất nhân.
Ðòi
phương ong khởi lần lần
Muôn
sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195.Man
mác một đỉnh Hoành Sơn (26)
Thừa
cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy
là những binh thù thái thái
Lòng
trời xui ai nấy biết ru ?
Phá
điền đầu khỉ cuối thu (27)
200.Tái
binh mới động thập thò liền sang
Lọ
chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ
lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu
tinh hiện trước đôi thu
Bấy
giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205.
Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài
bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành
câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ
ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến
trường chốn chốn cát lầm
210.
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang
thu chín huyết hồng tứ giả
Noi
đàn dê tranh phá đôi nơi
Ðua
nhau đồ thán quần lê
Bấy
giờ thiên hạ không bề tựa nương
215.Kẻ
thì phải thửa hung hoang
Kẻ
thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ
thì mắc thửa hung tàn
Kẻ
thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông
vương dựng tổ cắn tranh
220.Ðiều
thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời
bời đua mạnh tranh giành
Ra
đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể
thanh cá phải ẩn cây
Ðất
bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225.
Nào ai đã dễ nhìn u
Thủy
chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây
bay lá lửa đôi ngàn
Một
làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn
phương cùng có can qua
230.
Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân
Ðoài
phương thực có chân nhân
Quần
tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm
cho được chốn được nơi
Thái
nguyên một giải lần chơi trú đình (28)
235.Bốn
bề núi đá riễu quanh
Một
đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ
Ðông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh
cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc
kinh mới thật đế kinh
240.
Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim
hồng vỗ cánh bay cao
Tìm
cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai
dễ cứu con thơ sa giếng
Ðua
một lòng tranh tiếng giục nhau.
245.
Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể
dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy
cày thu đãi thời mùa
Bấy
giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân
ra cận duyệt viễn lai
250.Chẳng
phiềnbinh nhọcchẳng nài lương thêm
Xem
tượng trời biết đường đời trị
Gẫm
về sau họ Lý xưa nên
Giòng
nhà để thấy dấu truyền
Gẫm
xem bốn báu còn in đời đời
255.Thần
qui cơ nổ ở trời
Ðể
làm thần khí thửa nơi trị trường
Lại
nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông
Bảo Giang thiên định ai hay
Lục
thất cho biết ngày dầy (rày)
260.Phụ
nguyên ấy thực ở giầy (rày)Tào khê(29)
Có
thầy Nhân thập (30) đi về
Tả
phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc
hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp
vạn dân cho đẹp lòng trời
265.Ra
tay điều đỉnh hộ mai
Bấy
giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ
là phải nhọc kéo quân
Thấy
nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm
giáp tý vẽ khuê đã rạng
270.Lộ
Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân
trên vũ thí vân hành
Kẻ
thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản
đồ chảng sót cho ai
Nghìn
năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275.Vững
nền vương cha truyền con nối
Dõi
muôn đời một mối xa thư
Bể
kình tăm lặng bằng tờ
Trăng
thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu
vàng khỏe đặt vững chân
280.Càng
bền thế nước vạn xuân lâu dài
*****
281.
Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh
nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển
vàng mở thấy sấm trời
Từ
Ðinh đổi đời chí lục thất gian (31)
285.Một
thời có một tôi ngoan
Giúp
trong việc nước gặp an thái bình
Luận
chung một tập kim thời
Tướng
quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng
phu có chí thời coi
290.Những
câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài
nầy nên đấng vẻ vang
Biết
chừng đời trị biết đường đời suy
Kể
từ nhân doãn mà đi (32)
Số
chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
295.Tiếc
thay hiền sĩ bao già
Ước
bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử
cho tay giúp ra dùng
Tài
này so cùng tài trước xem sao
Trên
trời kể chín tầng cao
300.
Tai nghe bằng một ti hào biết hay (33)
Hiềm
vì sinh phải thời này
Rấp
phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp
đà thay thánh nghìn tài
Dáng
sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305.Nói
ra thì lậu sự đời
Trái
tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói
ra ám chúa bội quân
Ðương
thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ
cho nhân doãn hết sau ,
310.Ðến
chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời
xui những kẻ ắt (34) gian
Kiếp
đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua
nào tôi ấy đã bày
Trên
đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315.
Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích
gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc
tài gẫm được thời hay
Ðã
sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài
trai có chí anh hùng
320.Muốn
làm tướng súy lập công chưng đời
Khá
xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ
mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði
tìm cho đến đế cung
Rấp
phù xuất lực đế cung được toàn.
325.
Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn
phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ
cho động đất chuyển trời
Bấy
giờ thánh sẽ nên trai anh hùng
Còn
bên thì náu chưa xong
330.
Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời
ấy những quỉ cùng ma
Chẳng
còn ở thật người ta đâu mà
Trời
cao đất rộng bao xa
Làm
sao cho biết cửa nhà đế vương
335.Dù
trai ai chửa biết tường
Nhất
thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý
ra lục thất gian nay,
Thời
vận đã định thời nầy hưng vương
Trí
xem nhiệm nhặt cho tường
340.Bảo
Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua
ngự thạch bàn xa thay
Ðại
ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà
kêu vượn hót vang lừng
Ðường
đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345.Nhân
dân vắng mạt bằng tờ
Sơn
lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua
còn cuốc nguyệt cày mây
Phong
điều vũ thuận thú rày an dân
Phong
đăng hoà cốc chứa chang
350.Vua
ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính
cung phương khảm vần mây
Thực
thay thiên tử là nay trị đời
Anh
hùng trí lượng thời coi
Công
danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
355.Tìm
lên đến thạch bàn khê
Có
đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn
đi nhìn lại cho tường
Dường
như chửa có sinh vương đâu là
Chảng
tìm thì đến bình gia
360.Thánh
chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn
xem phong cảnh cũng xinh
Tả
long triều lại có thành đợt vây
Hửu
hổ uấn khúc giang này
Minh
Ðường thất diệu trước bày mặt ta.
365.Ở
xa thấy một con voi
Cúi
đầu quen bụi trông (35) hồ sau
Ấy
điềm thiên tử về chầu
Tượng
trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song
thiên nhật nguyệt sáng soi
370.Sinh
đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến
thời thịnh vượng còn lâu
Ðành
đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên
cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn
làm tướng súy thì xem trông này
*****
375.Thiên
sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một
nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền
sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu
sinh thiên tử Bảo Giang môn
*****
Kìa
cơn gió thổi lá rung cây (36)
380.
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan
tác kiến kiều an đất nước
Xác
xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn
lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng
địa tràng giang hóa nước đầy
385.Một
gió một yên ai sùng bái
Cha
con người Vĩnh Bảo cho hay
*****
Con
mừng búng tít con quay
Vù
vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà
cha cửa đóng then cài
390.
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc
tám lạng thương nửa cân
Biết
rằng ai có dù phần như ai
Vắt
tay nằm nghỉ dông dài
Thương
người có một lo hai phận mình.
*****
395.Canh
niên tàn phá
Tuất
hợi phục sinh
Nhị
ngũ dư bình
*****
Long
hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can
qua tứ xứ khởi đao binh
400.
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân
dậu niên lai kiến thái bình.(37)
*****
Non
đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có
một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn
nọ leo cành cho sỉ bóng
405.Lợn
kia làm quái phải sai đầu
Chuột
nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa
kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm
ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm
về quê cũ bắt ngựa tầu.
*****
410.Cửu
cửu kiền khôn dĩ định (38)
Thanh
minh thời tiết hoa tàn
Trực
đáo dương đầu mã vĩ
Hồ
binh bát vạn nhập trường an.
*****
Bảo
Giang thiên tử xuất
415.
Bất chiến tự nhiên thành
Lê
dân đào bão noãn
Tứ
hải lạc âu ca
Dục
thức thánh nhân hương
Qua
kiều cư Bắc phương
420.
Danh vi Nguyễn gia tử
Kim
tịch sinh ngưu lang
*****
Thượng
đại nhân bất nhân
Thánh
ất dĩ vong ân
Bạch
hổ kim đai ấn
425.Thất
thập cổ lai xuân
*****
Bắc
hữu kim thành tráng
Nam
tạc ngọc bích thành (39).
Hỏa
thôn đa khuyển phệ
Mục
giả dục nhân canh
*****
430.Phú
quí hồng trần mộng
Bần
cùng bạch phát sinh
Anh
hùng vương kiếm kích
Man
cổ đổ thái bình
Nam
Việt hửu Ngưu tinh
435.
Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ
giới sĩ vị bạch
Thủy
trâm nhi bắc kinh
Ký
mã xu dương tẩu
Phù
kê thăng đại minh
440.Chư
thử giai phong khởi
Thìn
mão xuất thái bình
*****
Phân
phân tùng Bắc khởi
Nhiểu
nhiểu xuất Ðông chinh
Bảo
sơn thiên tử xuất
445.
Bất chiến tự nhiên thành
*****
Thủy
trung tàng bảo cái
Hứa
cập thánh nhân hương
Mộc
hạ châm châm khẩu
Danh
thế xuất nan lường
*****
450.
Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh
bản tại Ngưu lang
Mại
dữ lê viện dưỡng
Khởi
nguyệt bộ đại giang
Hoặc
kiều tam lộng ngạn
455.
Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên
dữ thần thực thụy
Thụy
trình ngũ sắc quang
Kim
kê khai lựu điệp
Hoàng
cái xuất quí phương
460.
Nhân nghĩa thùy vi địch.
Ðạo
đức thùy dữ đương
Tộ
truyền nhị thập ngũ
Vận
khải ngũ viên trường
Vận
đáo dương hầu ách
465.
Chấn đoài cương bất trường
Quần
gian đạo danh tự
Bách
tính khổ tai ương
Can
qua tranh đấu khởi
Phạm
địch thán hung hoang.
470.Ma
vương sát đại quỉ
Hoàng
thiên tru ma vương
Kiền
khôn phú tái vô lường
Ðào
viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40)
Cơ
nhị ngũ thư hùng vị quyết
475.Ðảo
Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
Ta
hồ vô phụ vô quân
Ðào
viên tán lạc ngô dân thủ hành.
Ðoài
phương phúc điạ giáng linh
Cửu
trùng thụy ứng long thành ngũ vân.
480.
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng
sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần
công nãi thị phúc tâm
Giang
hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng
thần hệ xuất y chu
Thứ
ky phục kiến Ðường ngu thi thành
Hiệu
xưng thiên hạ thái bình
487.Ðông
Tây vô sự Nam thành quốc gia .
............................
(1).
Đao: chỉ họ Lê có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.
(2).
Thập bát tử: họ Lý nối ngôi
(3).
Đông A là nhà Trần . Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy
Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền
ngôi
cho chồng.
(4).
Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.
(5).Chấn
cung nhật hiện: chỉ họ Mạc, vì trong chữ Mạc có chữ
nhật.
(6).Cửu
thiên hồng nhật: họ Trịnh chữ Trịnh có chữ nhật.
Kìa
liệt vương khí hủ đồ ủng
Mặc
cường hầu ông ổng tranh khôn
Trời
sinh ra những kẻ gian
Mặc
khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài.
Họ
Trịnh là cường hầu, lấn áp vua Lê, thay đổi mọi
khuôn phép.
(7).
Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác
ghi là hư.
(8).
riếng: chữ giếng viết sai chính tả. Người Bắc viết
sai d,g,r như tự ro, rân chủ, Khánh Giư .
(9).Cưu,
nhạn là chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.
(10).Dư
đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh.
(11).
Mối giường: mối giềng.
(12).Đôi:
đôi chối, đôi co: nghĩa là cãi cọ, tranh luận.
(13):
Gia: giơ
(14).
Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa
dùng báo hiệu. Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường
là cái chòi tranh để tuần phu ngồi rtrong lúc canh phòng.
Tuần là đi rảo xung quanh để xem xét kẻ gian phi.
(15).
Từ câu 75-86 nói năm mậu thân 1788, vua Lê và hoàng thái
hậu chạy sang Trung Quốc
cầu
viện, rồi quân nhà Thanh sang Thăng Long. Năm kỷ dậu
1789, Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh.
(16).
Câu 89-99: Nhà Trịnh mua quan bán tước, làm khổ dân như
hai vua Hoàn Đế (146-168), và Linh Đế 156 – 189) tin dùng
hoạn quan, giết hại trung thần, khiến chế độ suy tàn.
(17).
Báo thù: Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị về, báo ơn báo
oán, gây nhiều việc thất đức. Xem Hoàng Lê Nhất Thống
Chi và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
(18).
Câu 100: Phù
Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra . Cát lầm bốn bể can
qua . . .Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
.
Nói
việc Nguyễn Huệ ra Bắc lấy cớ phù Lê diệt Trịnh
xong lại vào Nam, sau đem quân ra Bắc đánh tan quân Tôn Sĩ
Nghị.
(19).
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về: Nguyễn Huệ ra
Băc lại về Thuận Hóa..
(20).Ăn
rau ăn rới: có bản ghi “giới”. Giới là rau, là đồ
hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi)
(21).
Bung: phát ra, nổ ra, tràn ra.
(22).
Nhân kiến : Chỉ Lê Chiêu Thống , 1765 – 1793), tên thật
là Lê Duy Khiêm tên là. Duy Khiêm. Chữ Khiêm trong có chữ
Kiến . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung
Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó một thời gian thì Nguyễn
Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
(23).
Chổ viết sai, ch/tr, trổ là lộ ra, nở ra (trổ bông, trổ
mã), nghĩa là kéo binh ra.
(24).Đẩu,
Thai: tên hai ngôi sao. Nói về triều Nguyễn quần thần
tốt đẹp.
(25).
Có bản ghi một thí. Một tí, hay một thí: là một chút
(ngôn ngữ miền Trung).
(26).
Đỉnh Hoành sơn: nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễn
và Tây Sơn tại miền Trung.
(27).
Câu 199-200: Phá điền đầu khỉ cuối thu / Tái binh mới
động thập thò liền sang. Phá điền là quốc phá, là
nước mất bởi vì chữ điền giống chữ Quốc , cả hai
chữ thuộc bộ vi .
Tái
binh là binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc Nói việc
quân Pháp xâm chiếm Việt Nam, đánh Gia Định, Đà Nẵng
trong năm canh thân (1860).
(28).
Câu 231-240: ” Quần
tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người /Tìm cho được
chốn được nơi
Thái
nguyên một giãi lần chơi trú đình / . ,. . . . . . ,. .Bắc
kinh mới thật đế kinh
/ Dấu
thân chưa dễ dấu danh được nào
. Thái
Nguyên là nơi
núi rừng ở biên giới, đời Mạc, anh em Vũ Văn Mật đã
xây dựng thành một vùng trù phú. Sau Hoàng Hoa Thám trong
khoảng 1900 đã lập chiến khu tại đây, Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh cũng muốn giúp sức Hoàng Hoa Thám. Việt Nam
Quang Phục hội sau khi
Hoàng Hoa
thám thảm bại vẫn hoạt động cho đến 1913. Năm 1917,
Trịnh Văn Cấn và Lương NGọc Quyến khởi binh chống
Pháp...
(29).
Giầy, dầy: Rầy, rày
Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm
ký (III)
Thái
hoà vũ trụ bất Ngu Chu,
Hỗ
chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên
huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên
ngư tùng trước vị thuỳ khu.
Trùng
hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu
hoạn ưng phòng nhập thất khu.
Thế
sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý
ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
(Người
dịch: (Không rõ))
Thái
hoà chẳng thấy cảnh Ngu Chu,
Hai
phái thù hằn chém giết nhau.
Nhuộm
máu phơi xương đà khắp chốn,
Xua
chà đuổi sẻ vị ai đâu ?
Trùng
hưng duỗi ngựa qua sông trước,
Hậu
hoạn phòng beo tiến cửa sau.
Ngán
nỗi việc đời thôi phó mặc,
Say
rồi dạo suối hát vài câu.
....................
Những
năm Quang Thiệu (1516-1526), gặp lúc loạn lạc, Nguyễn
Bỉnh Khiêm về ẩn cư để dạy học trò, lấy Đạo làm
vui,
chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời đầu niên
hiệu Thống Nguyên (tức Lê Hoàng Đệ Thung) thì Trịnh
Tuy
và
Mạc Đăng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên tử để
sai khiến chư hầu, hai bên gây cuộc nội chiến, khiến
trong
nước
chịu cảnh lầm than, lúc ấy ông có cảm hứng bài thơ
này.
Sở
dĩ có bài thơ trên vì ông biết rõ nhà Lê sẽ được
trung hưng, dẫu rằng ngày nay tạm phải tìm kế an thân,
nhưng
rồi
sau đây tất nhiên sẽ lại khôi phục được nước, mà
câu: Beo tiến cửa sau, chỉ là nói kín đó thôi. Quả
nhiên về sau,
nhà
Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tịnh, bấy giờ
bạn hữu đều khuyên ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi
ông
mới
chịu ra ứng thí, khoa hương thi ấy, ông được đỗ đầu,
rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại
ra
tỉnh
thì được đỗ thứ nhất, khi vào đình đối, lại đỗ
Tấn Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các Hiệu
Thư, trong thời
Thái
Tông nhà Mạc, ông có làm 2 bài thơ "Xuân thiên ngự
tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu
Thị Lang
Hình
Bộ, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả Thị Lang,
kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ.
Trạng
trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm
ký (IV) (*)
1.
Cảm đề
1-
Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm
hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi
Cơ
tạo hoá
Phép
đổi dời
Đầu
non mây khói tỏa
Mặt
nước cánh buồm trôi
Hươu
Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu
Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi
già thua kém bạn
10-Văn
chương gửi lại đời
Dở
hay nên tự lòng người cả
Nghiên
bút soi hoa chép mấy lời
Bí
truyền cho con cháu
Dành
hậu thế xem chơi
2.
Sấm ký
15-
Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển
dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời
Từ
Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã
bao lần ngôi nước đổi thay
Núi
sông thiên định đặt bày
Đồ
thư một quyển xem nay mới rành
21-
Hoà đao mộc lạc,
Thập
bát tử thành.
Đông
A xuất nhập
Dị
mộc tái sinh.
25-
Chấn cung xuất nhật
Đoài
cung vẫn tinh.
Phụ
nguyên trì thống,
Phế
đế vi đinh.
29-
Thập niên dư chiến,
Thiên
hạ cửu bình.
Lời
thần trước đã ứng linh,
Hậu
lai phải đoán cho minh mới tường.
33-
Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc
Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà
thời biện lại vi vương,
Thử
thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.
37-
Lê tồn, Trịnh tại,
Lê
bại, Trịnh vong.
Bao
giờ ngựa đá sang sông,
Thì
dân Vĩnh Lại quận công cả làng.
Hà
thời thạch mã độ giang.
Thử
thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
43-
Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết
tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao
giờ trúc mọc qua sông,
Mặt
trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
47-
Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn
cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu
cha lộn xuống chân con,
Mười
bốn năm tròn hết số thời thôi.
51-
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin
dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục
lòng chim chích u mê,
Thập
trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.
55-
Để loại quỷ bạch Nam xâm,
Làm
cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai
vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia
đình một ở ba đi dần dần.
Cho
hay những gã công hầu,
Giầu
sang biết gửi nơi đâu chuyến này.
61-
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung
Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Tan
tác kiến kiều an đất nước
Xác
xơ cổ thụ sạch am mây.
65-
Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng
địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một
ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn
con nhà vĩnh bảo cho hay.
69-
Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đồ,
Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,
Giữa
năm hai bẩy mười ba,
Lửa
đâu mà đốt tám gà trên mây.
73-
Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
Rắn
mới hai đầu khó chịu thay,
Ngựa
đã gác yên không người cưỡi
Dê
không ăn lộc ngoảnh về Tây.
77-
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà
kia vỗ cánh chập chùng bay
Chó
nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn
no ủn ỉn lợn kêu ngày.
81-
Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí
anh hùng biết đấy mới ngoan.
Chữ
rằng lục, thất nguyệt gian
Ai
mà giữ được mới nên anh tài.
85-
Ra tay điều độ hộ mai
Bấy
giờ mới rõ là người an dân
Lọ
là phải nhọc kéo quân,
Thấy
nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
89-
Phá điền than đến đàn dê
Hễ
mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê
đi dê lại tuồn luồn
Đàn
đi nó cũng một môn phù trì
93-
Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ
vội sang tất tả chạy rong
Học
cho biết chữ cát hung
Biết
phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
Hễ
trời sinh xuống phải thì
Bất
kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
99-
Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem
trong mình một tí đều không
Ví
dù có gặp ngư ông
Lưới
dăng đâu dễ nên công mà hòng.
103-
Khuyên những đấng thời trung quân tử
Lòng
trung nghi nên giữ cho mình
Âm
dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái
Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.
Chớ
vật vờ quen loài ong kiến
Hư
vô bàn miệng tiếng nói không.
109-
Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam
Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ
ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình
ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113-
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu
xuất lam điền nhật chính đông
Nhược
đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ
phương thiên hạ thái bình phong.
117-
Ngỡ may gặp hội mây rồng
Công
danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước
Nam thường có thánh tài
Sơn
hà đặt vững ai hay tỏ tường?
121-
So mấy lề để tàng kim quỹ
Kể
sau này ngu bỉ được coi
Đôi
phen đất lở, cát bồi
Đó
đây ong kiến, dậy trời quỷ ma
125-
Ba con đổi lấy một cha
Làm
cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão
Thìn Tí Ngọ bất yên
Đợi
tam tứ ngũ lai niên cùng gần.
129-
Hoành Sơn nhất đái
Vạn
đại dung thân
Đến
thời thiên hạ vô quân
Làm
vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
133-
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ
nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên
sinh hữu nhất anh hùng
Cứu
dân độ thế trừ hung diệt tà.
137-
Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai
mà tìm thấy mới là thần minh
Uy
nghi dung mạo khác hình
Thác
cư một góc kim tinh non đoài
141-
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ
cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh
thư mấy quyển kinh luân
Thiên
văn địa lý, nhân dân phép màu
145-
Xem ý trời ngõ hầu khải thánh
Dốc
sinh ra điều đỉnh hộ mai
Song
thiên nhật nguyệt sáng soi
Thánh
nhân chẳng biết thì coi như tường
149-
Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn
Nghiêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng
hiên ngang nào ai biết trước
Tài
lược thao uyên bác vũ văn
Ai
còn khoe trí khoe năng
Cấm
kia bắt nọ hung hăng với người.
155-
Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc
lại mòng gá vạ cho dân
Muốn
bình sao chẳng lấy nhân
Muốn
yên sao lại bắt dân ghê mình?
159-
Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại
đua nhau quần thán đồ lê
Chức
này quyền nọ say mê
Làm
cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ
thì phải thuở hung hoang
Kẻ
thì bận của bổng toan, khốn mình
165-
Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh
minh thời tiết hoa tàn
Trực
đáo dương đầu mã vĩ
Hồ
binh bát vạn nhập Tràng An
169-
Nực cười những kẻ bàng quang
Cờ
tam lại muốn toan đường chống xe
Lại
còn áo mũ xun xoe
Còn
ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
173-
Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng
kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh
ra tuyết tán mây tan
Bây
giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
177-
Can qua, việc nước bời bời
Trên
thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
Oai
phong khấp quỷ kinh thần
Nhân
nghĩa xa gần bách tính ngợi ca
181-
Rừng xanh, núi đỏ bao la
Đông
tàn, Tây bại sang gà mới yên
Sửu
Dần thiên hạ đảo điên
Ngày
nay thiên số vận niên rành rành.
185-
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can
qua xứ xứ khổ đao binh
Mã
đề dương cước anh hùng tận
Thân
dậu niên lai kiến thái bình
189-
Sự đời tính đã phân minh
Thanh
nhàn mới kểchyện mình trước sau
Đầu
thu gà gáy xôn xao
Mặt
trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
193-
Chó kêu ầm ỉ mùa đông
Cha
con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn
kêu tình thế lâm nguy
Quỷ
vương chết giữa đường đi trên giời
197-
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu
cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm
gầm khắp nẽo gần xa
Mèo
kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.
201-
Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn
qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa
hồng quỷ mới nhăn răng
Cha
con dòng họ thầy tăng hết thời
205-
Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện
giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời
truyền để lại bấy nhiêu
Phương
đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu
sinh thuộc lấy làm lòng
Đến
khi ngộ biến đường trong giữ mình.
211-
Đầu can Võ tướng ra binh
Ắt
là trăm họ thái bình âu ca
Thần
Kinh Thái Ất suy ra
Để
dành con cháu đem ra nghiệm bàn
215-
Ngày thường xem thấy quyển vàng
Của
riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi
Thái Ất thấy lạ đời
Ấy
thuở sấm trời vô giá thập phân
219-
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp
đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi
đời có một tôi ngoan
Giúp
chung nhà nước dân an thái bình
223-
Phú quý hồng trần mộng
Bần
cùng bạch phát sinh
Hoa
thôn đa khuyển phệ
Mục
giã giục nhân canh
Bắc
hữu Kim thành tráng
Nam
hữu Ngọc bích thành
Phân
phân tùng bách khởi
Nhiễu
nhiễu xuất đông chinh
Bảo
giang thiên tử xuất
Bất
chiến tự nhiên thành
233-
Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng
đời được lúc hiển vinh reo hò
Nhị
Hà một dải quanh co
Chính
thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp
hoà thiên hạ nao nao
Cá
gặp mưa rào có thích cùng chăng?
239-
Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám
quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy
lâu những cậy phép màu
Bây
giờ phép ấy để lâu không hào
243-
Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh
mình vào ở nội Ngô Tề
Có
thầy Nhân Thập đi về
Tả
hữu phù trì, cây cỏ thành binh
247-
Những người phụ giúp thánh minh
Quân
tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng
thời nay hội thái lai
Can
qua chiến trận để người thưởng công
251-
Trẻ già được biết sự lòng
Ghi
làm một bản để hòng giở xem
Đời
này những thánh cùng tiên
Sinh
những người hiền trị nước an dân
255-
Này những lúc thánh nhân chưa lại
Chó
còn nằm đầu khải cuối thu
Khuyên
ai sớm biết khuông phù
Giúp
cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.
259-
Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc
tàn rồi mới tỏ thấp cao.
Thấy
sấm từ đây chép vào
Một
mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa
...................................
(*)
Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề”
và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng
Xuân và
Thời
Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ
Mai Lĩnh.
2.
Nghệ thuật thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm
NGUYỄN
HUỆ CHI
Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một tác gia lớn mà sự nghiệp
bao trùm gần hết
thế
kỷ XVI. Với tư cách nhà thơ, ông sáng tác cả thơ chữ
Hán và thơ Nôm. Nhưng
nếu
thơ Nôm của ông có khá nhiều bài lẫn lộn với thơ Nôm
Nguyễn Trãi (1380-1442), đến nay vẫn chưa thể tách bạch,
thì thơ chữ Hán của ông lại mang những đặc điểm
khác với thơ chữ Hán Nguyễn Trãi và cũng khó trùng lẫn
với thơ chữ Hán của bất kỳ ai. Nét riêng khu biệt thơ
chữ Hán Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được giới học giả
bàn nhiều, nhất là từ hướng tiếp cận nội dung tư
tưởng. Lần này, xin thử góp thêm một đôi điều về
hình thức nghệ thuật.
Với
số lượng 1.000 bài thơ như chính Nguyễn Bỉnh Khiêm viết
trong lời Tựa Bạch
Vân
am thi tập, có thể nói ngay rằng ông là người sở
trường về thơ chữ Hán, và ông
gửi
gắm tâm sự “cứu thế” cũng như tinh lực sáng tạo
trước hết vào thơ chữ Hán chữ
không
phải thơ Nôm. Có điều, trong tiến trình phát triển của
thơ ca dân tộc, do sớm
chịu
ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn học Trung Quốc, lại
được đào luyện chu đáo ở
các
trường học chữ Hán, nên dòng thơ Hán - Việt đã xuất
hiện từ rất sớm và cũng
thành
thục từ khá lâu trước Nguyễn Bỉnh Khiêm. Là người
làm thơ chứ Hán, Nguyễn
Bỉnh
Khiêm chỉ kế thừa truyền thống tốt đẹp đó và phát
triển lên chứ không có gì phải
khổ
công mò mẫm, tìm tòi như trong phần thơ tiếng Việt. Tất
nhiên, mọi thành tựu
rực
rỡ của quá khứ không phải bao giờ cũng có tác động
thuận lợi đối với tâm lý sáng
tạo
của nghệ sĩ. Thông thường mới bước chân vào làng
thơ, nhìn vào bề dày của lịch
sử,
người ta dễ cảm thấy ngợp và nếu không phải là
người có bản lĩnh, ít ai dám thách
thức
với những đỉnh cao sừng sững che rợp tầm mắt mình.
Giỏi lắm, người ta cũng
chỉ
làm theo người trước một cách thụ động là cùng. Thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm có
những
mặt quả đúng như vậy, nhưng cũng có mặt không hoàn
toàn như vậy. Có hứng
thú
làm đến 1.000 bài, một số lượng mà cho đến thời của
ông hình như vẫn chưa ai
đạt
đến (1), người nghệ sĩ trong Nguyễn Bỉnh Khiêm chắc
hẳn từ rất sớm đã được bồi
dưỡng
một năng khiếu và một cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ.
Mặt khác, chắc hẳn ông
cũng
đã tắm gội trong ngọn nguồn của các dòng thơ quá khứ,
tiếp xúc với các phong
cách
tiêu biểu, trên cơ sở đó lựa chọn con đường đi
riêng cho mình. Ta sẽ thấy
Nguyễn
Bỉnh Khiêm tuy rất gần Nguyễn Trãi trong phong cách thơ
Nôm nhưng trong
thơ
chữ Hán của ông, ông đã không lựa chọn hình thức
biểu đạt kỳ vĩ để nói lên vẻ
đẹp
hùng tráng của thiên nhiên, cũng không bộc bạch trực
diện thân phận riêng của
mình
như trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi. Ông có phần gần gũi
với phong thái hồn
hậu
trong thơ Lý - Trần, mặc dầu chưa bao giờ thơ ông đạt
được vẻ tự nhiên tươi tắn
của
thơ Lý - Trần, và cũng không lắng đọng lại trong thơ
cái mầu sắc “sắc không”
uyển
chuyển của nhà Phật vốn là chiều sâu triết lý của
thơ Lý - Trần. Nguyễn Bỉnh
Khiêm
cũng có những mặt tiếp thu phong cách trường thơ Nguyễn
Bảo (1452-?), Thái Thuận (1441-?) ở thế kỷ XV với những
nét khắc họa bình đạm, giản dị khung cảnh sông núi,
đồng ruộng, làng quê...
Nếu
xét về đề tài thì thơ chữ Hán Nguyễn Bỉnh Khiêm nói
chung bao quát ba loại đề
tài
lớn: ngôn chí, tả cảnh, vịnh vật. Đó cũng là những
đề tài truyền thống của nhà nho
chứ
không có gì mới mẻ. Thêm nữa, trong thơ ông, ba loại đề
tài này cũng không tách
bạch
mà có xu hướng hòa trộn vào nhau, trong đó đề tài
“ngôn chí” hầu như len lỏi
vào
mọi hình thức khác. Điều này cũng là dễ hiểu, bởi
Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn xuất
thân
từ cửa trường Khổng Mạnh, mà đối với lớp người
này, hoạt động thi ca bao giờ
cũng
là phương thức cao quý để người quân tử tỏ bày
chính kiến của mình. “Thi khả
dĩ
hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần... cận chi sự phụ mẫu,
viễn chi sự quân...”. Cho nên
không
thể cẩu thả hay tùy hứng trong nghệ thuật làm thơ. Sự
quy định chặt chẽ của
một
quan niệm như trên khiến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dù cố
gắng đến đâu cũng
không
thể thoát khỏi tính tượng trưng, ước lệ trong quá
trình sáng tác. Hình thức “ý
tại
ngôn ngoại” trong thơ ông vẫn là phổ biến. Ông tả
cảnh hay vịnh vật đấy mà thực
chất
là để nói lên một hoài bão, gửi gắm một suy nghĩ,
tâm tình không liên quan gì
đến
đối tượng mà ông miêu tả. Ông không quan tâm đến
tính chân thực cần có của sự
tái
hiện thẩm mỹ, vì ông không thấy có nhu cầu phải mô
tả vẻ đẹp tự nó của đối tượng như là một mục
đích trọn vẹn của thi ca. Về điểm này, thơ vịnh vật
của Nguyễn Bỉnh Khiêm có phần gắn với trường phái
Tao đàn Hồng Đức dưới thời Lê Thánh Tông, và những
đề tài “quả dừa”, “cây đa”, “con ve”, “cây
khoai”... của ông thật ra chẳng hề đem lại cho ta một
cảm hứng khách quan đúng đắn nào về những sự vật
được ông nhắc tới. Chúng giữ vai trò của những biểu
tượng thuần túy. Mà cốt lõi trung tâm của loạt biểu
tượng này trước sau cũng vẫn quy tụ vào một hình ảnh:
bậc đại nhân, người ẩn dật, kẻ sĩ quân tử.
Nói
về thể tài, thơ chữ Hán Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu
chia thành hai loại: thơ
Đường
luật và thơ cổ phong. Trong thơ Đường luật, ông sáng
tác cả thất luật và ngũ
luật,
nhưng thơ thất luật chiếm số lượng trội hơn. Còn
trong thơ cổ phong, hầu như
ông
chỉ dùng ngũ ngôn là chính.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm là người làm thơ Đường thành thạo. Nhiều
bài thơ Đường luật
của
ông giàu kỹ xảo điệp từ và đối thanh, đối ý rất
chỉnh, mà lại không hề có chút gò
gẫm,
chứng tỏ ông nhập vào môi trường thơ Đường một
cách thân thuộc như cá sống
trong
nước, chứ không phải là một thợ thơ.
Ông
rất hay dùng từ điệp ở câu đầu và câu thứ hai của
bài thơ, làm cho người đọc vừa
đọc
vào thơ ông đã phải chú ý đến một sự khác thường
về nhạc điệu. Cách dùng từ
điệp
của ông cũng khá giản dị, tưởng chỉ là thuận miệng
mà nói ra như vậy, kỳ thực là cái giản dị của một
bậc đại bút. Mỗi chữ lặp đều mở ra một trường
liên tưởng rộng rãi, vừa đăng đối, trùng điệp về
hình ảnh:
Bán
thôn y thị, bán nhân hương
(Ngụ
hứng, bài 1)
Bạch
Vân am bạng bạch vân hương
(Tự
thuật, bài 3)
vừa
có âm thanh lanh lảnh của khe suối:
Vân
am, am cận tiểu khê tuyền
(Ngụ
hứng, bài 10)
lại
vừa là cái khoái ý ngân lên trong tâm hồn:
Mịch
đắc thôn khê, địa nhất triền,
Nhàn
lai ngô diệc lạc ngô thiên.
(Ngụ
hứng, bài 4)
Thùy
gia huyền quản túy phong lưu,
Tranh
tự du nhàn mịch thắng du.
(Trung
tân quán ngụ hứng, bài 5)
Thiều
quang thục úc cáp giai thần,
Tối
ái kim xuân thắng tích xuân.
(Ất
Sửu tân xuân hý tác)
Có
khi từ điệp được Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng tả trong
những cặp câu đối, không chỉ
có
tác dụng lặp lại từ ngữ mà còn gây tương phản về
âm hưởng, như những tiếng vọng xa gần của đời sống
dội lại, tăng thêm sức động của từng cặp sóng đối
giữa cảnh với người:
Ngư
chu vãn hướng ngư khê bạc,
Dã
tốc hương tòng dã khách lai.
(Thuyền
cá chiều về khe cá đậu,
Rau
quê hương tiễn khách quê chơi.) (*)
(Trung
Tân quán ngụ hứng, bài 1)
Cũng
có khi từ điệp được tác giả đặt liên tiếp thành
chuỗi trong gần suốt một bài, gợi
cái
ý triền miên bất tận và sự xoắn quyện của dòng tư
tưởng:
Nhân
thôn quán tây nam,
Giang
thủy quán tây bắc.
Trung
hữu bán mẫu viên,
Viên
hữu Vân am trắc.
Luân
chuyển trần bất đáo,
Hoa
trúc thủ tự thực.
Trượng
lý tập hoa hương,
Trản
lạc xâm hoa sắc.
Điểu
thổ phanh trà yên,
Ngư
thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển
hướng nhậm thi cuồng,
Phù
suy đa tửu thực.
Nhân
xảo ngã độc chuyết,
Thùy
tri chuyết thị đức.
Ngã
chuyết nhân giai xảo,
Thùy
tri xảo thị tặc.
Kiền
thôn tĩnh lý suy,
Kim
cổ nhàn trung đắc
Hiểm,
mạc hiểm thế đồ,
Bất
tiễn, tiện kinh cức.
Nguy,
mạc nguy nhân tâm,
Nhất
phóng tiện quỷ quắc.
Quân
tử cầu sở chi,
Chí
thiện tư vi cực
(Trung
Tân ngụ hứng)
Bên
cạnh nghệ thuật điệp từ, việc xây dựng các cặp câu
đối cũng là một sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
và hình như tiêu điểm của các cặp câu đối này là
nhắm vào một hình tượng đột xuất – “ông nhàn”:
Cao
khiết thùy vi thiên hạ sĩ?
An
nhàn ngã thị địa trung tiên.
(Trong
sạch trên đời ai kẻ sĩ?
An
nhàn giữa cõi ấy ta tiên.)(*)
Ngụ
hứng, bài 10)
“Ông
nhàn” ấy, đặt trong thế chiếu ứng qua lại của gió
trăng hoa cỏ, càng tôn thêm
phong
độ tiên cốt:
Hiểu
lâm thái phố sương niêm lý
Dạ
phiếm ngư ky nguyệt mãn thuyền.
(*)
Hữu Thế dịch.
(1)
Trong bài Trung Tân quán ngụ hứng, số 8, Nguyễn Bỉnh
Khiêm còn có một câu:
“Thi
tá oanh hoa thiên thủ hữu” nghĩa là: “Thơ mượn được
cảnh chim oanh và hoa,
nghìn
bài cũng có”, ngữ khí câu này cho thấy lòng tự tin của
ông đối với bút lực mình.
(Vườn
rau sáng dạo sương đầy dép,
Bến
cá đêm trăng bóng lọt thuyền.) (*)
(Ngụ
hứng, bài 4)
Ngay
cả mầu sắc cũng được vận dụng đối chọi, nhằm mở
rộng không gian vũ trụ của
người
ở ẩn:
Sơn
đới thu dung thanh chuyển sấu,
Giang
hàm nguyệt ảnh bạch tương sai.
(Núi
nhuộm sắc thu xanh nhạt vẻ,
Sông
in bóng nguyệt trắng lồng đôi.) (*)
(Ngụ
hứng, bài 8)
Trong
các cặp câu đối Nguyễn Bỉnh Khiêm còn chú ý đến
biện pháp đảo trang, gây
cho
ngữ điệu câu thơ một ấn tượng mạnh. Cả hai cặp
câu đối trong Ngụ hứng, bài 10
(đã
dẫn hai câu ở phần trên) đều dùng biện pháp đảo
trang đó. Có thể phân cách các từ đảo trang ở mỗi
câu bằng hai chấm để thấy rõ dụng ý nghệ thuật của
tác giả:
Cao
khiết: thùy vi thiên hạ sĩ?
An
nhàn: ngã thị địa trung tiên.
Vãn
hương tam kính: Đào Bành Trạch,
Phá
ốc sổ gian: Lư Ngọc Xuyên.
(Trong
sạch: trên đời ai kẻ sĩ?
An
nhàn: giữa cõi ấy ta tiên.
Cúc
thơm ba khóm: Đào Bành Trạch,
Nhà
nát vài gian: Lư Ngọc Xuyên.) (*)
Hữu
Thế dịch
Rõ
ràng, không thể không thừa nhận trong khuôn khổ một thể
thơ niêm luật chặt chẽ
như
thơ Đường, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã biết cách phát huy cá
tính sáng tạo của mình
để
có được những tìm tòi nhất định. Nhưng điều đáng
nói ở đây là nếu từ một góc
nhìn
sâu hơn, nhìn vào đặc trưng thi pháp, nó mới là linh hồn
của thi ca, thì thơ
Đường
của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại không mang phong vị thơ Đường
bao nhiêu. Nếu
thơ
Đường số lớn là thơ tâm trạng, trong đó chủ thể
thẩm mỹ thông qua cảnh vật để tự bộc lộ mình, thì
thơ ông nói chung là thơ ngôn chí, mà chí ở đây là chí
của người quân tử trong mọi trường hợp hành, tàng,
xuất, xử. Nếu thơ Đường là thơ tương phản động
- tĩnh thì thơ ông là thơ trung hòa động -
tĩnh:
Công
danh bất hệ nhất ngư chu,
Liêu
hướng điền viên mịch thắng du.
Tài
cúc đình tiền vô tục khách,
Cán
y khê ngoại hữu thanh lưu.
(Công
danh hờ hững chiếc thuyền không,
Cảnh
thắng tìm về thú ruộng đồng.
Sân
cúc lại qua không khách tục,
Khe
liêm tắm giặt sẵn dòng trong.)
(Nguyễn
Văn Bách dịch)
(Ngụ
hứng, bài 3)
Nếu
trong thơ Đường luôn luôn có hai điểm nhìn đối sánh:
điểm nhìn hướng ngoại là
sự
xạ ảnh của điểm nhìn hướng nội, thì trong thơ ông,
chiều hướng khách thể hóa tâm
trạng
lại dẫn đến sự hợp nhất của hai điểm nhìn. Và nếu
thơ Đường thu hút người đọc
ở
một kết cấu "khép", một nhân vật mở ra ở
đầu bài thơ và mất hút trong cô đơn,
không
gian và thời gian đều là những ám ảnh tâm linh của cá
thể cô đơn đó, thì thơ
ông
lại là một kết cấu "khép - mở", gợi lên hình
ảnh một con người ung dung tự tại,
trong
sự hài hòa của một không - thời gian hiện hữu.
Tế
nịch phủ nguy quý bất tài,
Cố
hương hữu ước trụng quy lai.
Khiết
thân chỉ khủng thanh danh đại,
Kịch
túy na tri lão bệnh thôi.
Sơn
đới thu dung thanh chuyển sấu,
Giang
hàm nguyệt ảnh bạch tương sai.
Cơ
quan liễu khước đô vô sự,
Tân
quán sài môn tận nhật khai.
(Tài
mọn khôn lo liệu việc đời,
Hẹn
hò vườn cũ hãy về thôi.
Sạch
mình luống sợ thanh danh lớn,
Say
khướt nào hay lão bệnh rồi.
Núi
nhuộm sắc thu xanh nhạt vẻ,
Sông
in bóng nguyệt trắng lồng đôi.
Thản
nhiên vô sự lòng không vướng,
Tân
quán ngày đêm mở cửa hoài.)
(Hữu
Thế dịch)
(Ngụ
hứng, bài 8)
Thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tiếng nói của "cái ta" đạo
lý chứ chưa bao giờ đạt đến
"cái
tôi" cá thể. Ông không giành được cho mình một
nghệ thuật say người như thơ
Đường.
Tuy vậy, những phản mã thơ Đường do ông sáng tạo cũng
chứng tỏ một sự
vật
lộn bền bỉ của nghệ thuật thơ ca cổ điển dân tộc
để không rơi vào chỗ mô phỏng.
Điều
này càng cho thấy vận mệnh của dòng thơ Hán - Việt
trong hàng trăm năm trước đã không bị lệ thuộc hoàn
toàn vào những ảnh hưởng to lớn mà nó tiếp thu ở
dòng thơ chữ Hán nước ngoài, mà luôn luôn tùy thuộc
vào sức sống của chính nó, là điều kiện để chuyển
hóa và thanh lọc những gì mà nó tiếp thu, và để cách
tân, sáng tạo theo đúng quy luật vận động nội tại.
Nhưng
ngoài những bài thơ Đường luật, còn phải nói đến
phần thơ ngũ ngôn cổ
phong
của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sáng tác theo thể cổ phong thì
nhiều nhà thơ trước
Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã từng thể nghiệm. Thời Lý - Trần có
Trần Tung (1230-1291),
Trần
Minh Tông (1300-1357)… Thời Lê sơ có Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bảo… Họ viết
những
bài thơ theo thể này nhằm biểu đạt cảm hứng phóng
khoáng về những đề tài
khó
lòng dung nạp hết trong một bài Đường luật. Cảm hứng
Thiền của Trần Tung là
một
bằng chứng khá rõ: những giờ phút ngộ đạo của vị
cư sĩ họ Trần đã gây nên trong ông một niềm phấn
hứng mạnh mẽ, buộc ông phải mở rộng dung lượng cảm
xúc, và kết quả là một loạt bài thơ trường thiên,
trường đoản cú, niêm luật không câu thúc ra đời.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có lẽ cũng ở vào trường hợp này.
Như
vậy, nói đến nghệ thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Bỉnh
Khiêm, việc xem xét vị
trí
của thể thơ có một ý nghĩa quan trọng tương đối. Nhà
thơ sáng tác thể thơ này hay
thể
thơ kia chủ yếu là do yêu cầu chuyển tải cảm hứng.
Hình thức nào chuyển tải đạt
nhất
mạch cảm hứng của tác giả là hình thức tối ưu trong
sáng tạo. Nguyễn Bỉnh
Khiêm
đã sống trong môi trường thơ Đường luật như cá sống
trong nước, đã cùng lúc
biểu
hiện trong thơ Đường luật cả hai con người xuất thế
và nhập thế, nhưng cái lõi
cốt
yếu thì vẫn là kiểu ngưùơi ung dung tự tại, vượt
lên trên mọi thế thái nhân tình. Dĩ nhiên, thời cuộc
rối ren phức tạp không cho phép ông dừng ở đấy. Khuôn
khổ chật
hẹp
của thơ Đường luật ràng buộc tầm suy nghĩ của ông.
Ông đành phải "phá rào",
tìm
đến thể ngũ ngôn trường thiên thay cho thể thơ Đường
luật để mở rộng dung lượng phản ánh của tác phẩm,
trong đó ông đối diện trực tiếp với thế sự và trở
thành
nhà
phẩm bình thế sự.
Chính
vì thế, trở lại với thể thơ Đường luật của Nguyễn
Bỉnh Khiêm để soi nhìn từ
một
góc độ khác, ta dường như lại khám phá thêm một điểm
mới: ngay ở phần thơ
này,
tính thuần nhất về tư tưởng đã bị vi phạm ở một
số khá nhiều bài. Nguyễn Bỉnh
Khiêm
là con người luôn luôn băn khoăn trăn trở giữa xuất
thế và nhập thế. Hai con
người
ấy đều tồn tại mọi nơi mọi lúc ở trong ông, chúng
cứ chuyển hóa lẫn nhau một
cách
không tự giác, và đi vào cảm hứng sáng tạo đã đưa
ông đến trạng huống lúc nào cũng như bị giằng níu,
phân đôi, tự phản tỉnh đối với mình. "Xuất thế"
mà lại "nhập
thế",
"nhập thế" nhưng trong chiều sâu tâm tưởng vẫn
có một khoảnh trời "xuất thế" -
đó
là kết cấu "nghịch đảo", là sự đan cài của
hai lớp nghĩa trái ngược thường thấy
trong
nghệ thuật thơ chữ Hán của ông.
Hãy
thử đọc một bài thơ Ngụ hứng số 2. Đây là tâm thế
an nhàn, tìm lãng quên mình
trong
cảnh vật của tác giả. Tác giả hiện ra trong tư cách
một ông già, ngồi ngắm cảnh
chiều
trước chén rượu chếnh choáng, và tưởng chừng ngoài
trời chiều, dòng sông,
tiếng
hát thuyền chài, gió, cây, hoa, cỏ ra thì không còn biết
đến gì nữa:
Giang
quán đăng lâm nhật hướng tà,
Thừa
hàn bả tửu thính ngư ca.
Bán
thiên lương đệ thanh phong hảo,
Lưỡng
ngạn tình thiên lục thụ đa.
Hứng
kịch dã tình thiên ái cúc,
Túy
nùng lão nhãn dị sinh hoa.
(Giang
quán tiêu dao bóng xế tài,
Thừa
nhàn chuốc rượu, lắng ngư ca.
Một
cơn gió thoảng trời man mát,
Hai
rặng cây xanh lá rượm rà.
Lúc
hứng, hứng xui lòng mến cúc,
Chén
say, say khướt mắt nhòe hoa.) (*)
Ngô
Lập Chi dịch
Nhưng
đột nhiên, đến hai câu kết, người làm thơ bỗng như
chợt tỉnh khỏi cơn say sưa
vô
thức đó. Cả một câu hỏi nghiêm túc đặt ra đưa
Nguyễn Bỉnh Khiêm trở lại đối mình với hiện thực:
Hà
thời tái đổ Đường Ngu trị?
Y
cựu kiền khôn nhất thái hòa
(Bao
giờ lại thấy đời Nghiêu Thuấn
Xoay
lại kiền khôn buổi thái hòa?) (*)
Ngô
Lập Chi dịch
Thì
ra ông có say đâu. Ông đang rất tỉnh trong cơn say. Không
ít bài thơ khác của ông
đều
được cấu tạo theo hình thức "lật ngược tình
thế" như trên. Nghệ thuật xây dựng
hai
câu kết ở đây đóng vai trò quan trọng. Hai câu kết bao
giờ cũng là một mệnh đề
chuyển
chiết. Bài Ngụ hứng số 1:
Bán
y thôn thị, bán nhân hương,
Trung
hữu trì viên nhất mẫu cường.
Am
quán trường nhàn xuân bất lão,
Giang
sơn nhập họa bút sinh hương.
Thanh
lưu tá hưởng cầm thanh nhuận,
Cổ
mộc lưu âm khách mộng lương.
(Một
bên quê chợ một bên làng,
Hơn
mẫu vườn ao cũng rảnh rang.
Am
quán thư nhàn xuân mãi thắm,
Giang
sơn như họa bút sinh hương.
Dòng
tuôn vang vọng cung cầm đượm,
Bóng
cả che râm mộng khách vương.)
(Hữu
Thế dịch)
Mạch
cảm hứng của bài thơ tưởng chừng sẽ đưa nhà thơ
đắm sâu vào cõi mộng, ai mà chẳng phải tin như vậy.
Nhưng không, ông chỉ vờ ngủ đấy thôi, bởi hai câu kết
tiếp liền theo cho thấy ông rất tự ý thức về vị trí
"tư văn" của mình: có một tiếng cười tự đắc
ngầm đang muốn bật ra, ẩn sau đôi mắt nhìn đời lạc
quan của tác giả:
Thặng
hỷ tư văn thiên vị táng,
Chí
kim hạnh đắc bộc thu dương.
(Mừng
thấy "tư văn" trời chẳng bỏ,
Đến
nay vẫn tắm ánh dương vàng. (*)
Và
nếu trình tự "say - tỉnh" đã hầu thành quy
luật, tạo nên các đột biến nghệ thuật trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm như ta vừa dẫn, thì cũng một
dạng đột biến, như thế nhưng
theo trình tự ngược lại, lại diễn ra một cách lý thú
ở những bài thơ mang cảm hứng
nhập thế của ông. Ở những bài loại này, người đọc
dễ dàng nhận ra cái bồng bột, hăng say của nhà thơ khi
ông xuất phát từ chỗ đứng của một con người dấn
mình vào thời cuộc. Ông được vua Mạc mấy lần mời
tham gia tòng chinh dẹp loạn, và nỗi phẫn uất trước
tình cảnh "Đảo huyền dân cửu ly hung ngược"
(Bị treo ngược, lâu nay dân sa vào tay bọn hung tàn) biến
ông thành con người xông xáo, không từ nan bất cứ việc
gì:
Lão
lai tương dữ cưỡng tòng nhung,
Diệt
tặc do hoài báo quốc trung.
Mạo
tuyết na từ thiên lý viễn,
Ưu
thời ưng ký nhất tâm đồng.
(Tuổi
già gắng gỏi việc binh nhung,
Giết
giặc mong vì nước dốc trung.
Gội
tuyết dám từ nghìn dặm thẳm,
Lo
thời ghi tạc một lòng chung.)
(Lỗ
Công dịch)
(Giản
đồng sai Nghĩa Trai bá, Hoành Trung hầu)
Có
lúc con người già nua ấy còn quên cả tuổi già, nghĩ
đến trách nhiệm lớn lao, hồn nhiên
cất lên tiếng hát để tỏ bày tráng chí:
Chỉ
kỳ thệ phục cựu sơn hà,
Khẳng
khái đăng chu phát hạo ca.
(Định
kỳ khôi phục núi sông xưa,
Khẳng
khái lên thuyền cất tiếng ca)
(Hữu
Thế dịch)
(Thủy
hành phó doanh cảm tác)
Nhưng
sau tất cả những lời lẽ và cử chỉ rất mực hăng
hái đó, bình tâm lại, dường như
ở
một nơi nào trong chỗ sâu kín của tiềm thức ông vẫn
cứ âm thầm vang lên một lời
nhắc
nhở, rằng thật ra thì ông đã già rồi. Cái việc ông
đóng vai con người xả thân
hành
động chỉ là vì tình thế bắt buộc mà thôi, chứ ông
không phải là người còn hợp
với
"tạng" này. Và thế là, cũng như ở những bài
thơ xuất thế, một tâm thế cưỡng lại
cái
mạch hưng phấn tư tưởng đang có sẵn lại xuất hiện
ở đây, và được biểu hiện cũng
chính
trong hai câu kết, nó gói trọn tâm sự thực của tác
giả:
Ký
thủ tặc nô bình định hậu,
Trùng
tầm Tân quán lữ ngư hà.
(Ghi
đợi sau ngày yên giặc dữ,
Lại
về Tân quán bạn tôm cua.)
(Hữu
Thế dịch)
(Thủy
hành phó doanh cảm tác)
Ký
thủ vương sư hoàn khải nhật,
Luân
cân bố hạt nhậm nhàn tình.
(Ngày
nào quân lính khải hoàn,
Khăn
thô áo vải an nhàn thảnh thơi.)
(Tòng
Tây chinh, bài 1)
Đứng
về cấu trúc nghệ thuật, thơ xuất thế và thơ nhập
thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm quả thực đều có chỗ giống nhau. Hơn ai hết, hiện tượng
phản tỉnh, lật đi lật lại trong tư
duy nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh một sự
giằng co không dứt giữa hai
mặt xuất và xử trong chiều sâu tư tưởng của con người
tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét